HAY
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐÃ VÀ ĐANG KHIỂN DỤNG VỎ BỌC PHẬT GIÁO LÀM PHƯƠNG TIỆN
BÔI XÓA TỘI ÁC, CỦNG CỐ QUYỀN LỰC NHƯ THẾ NÀO.
(Phần 1.)
Seattle, August. 2012
Thái A
với sự đồng ý
của nguyên tác giả Thái A.
Theo nguồn: nhabaovietthuong.com,
Trân trọng
Vietnam - Buddhist
Theo nguồn: nhabaovietthuong.com,
Trân trọng
Vietnam - Buddhist
DẪN NHẬP ĐỀ:
1.
Theo
Hiệp định Genève về việc tạm thời chia cắt lãnh thổ Việt Nam vào ngày
20.07.1954 thì trong một thời gian ngắn, dân chúng hai miền Nam Bắc được tự do
quyết định di cư đến hai miền Nam Bắc của đất nước. Ranh giới tạm thời chia cắt
đất nước là vĩ tuyến 17, biên giới thiên nhiên là sông Bến Hải.
Nguyên do của
hiệp định này, một bên là âm mưu chiến lược thâm độc của Hồ Chí Minh tự nguyện
làm khuyển mã theo chỉ thị của quốc tế cộng sản, được giật dây trực tiếp bởi
Moskau và Bắc Kinh, và một bên là nước Pháp, sau khi thất thế tại chiến trường
Điện Biên Phủ đang cố gắng để đạt được hiệp định này để rút lui khỏi Việt Nam
trong một tư thế khả thi nhất. Các đảng phái quốc gia khác tại Việt Nam đương
thời đều phản đối sự chia cắt đất nước một cách ngang trái này.
Vào thời điểm đó
dòng người dân miền Bắc tìm mọi cách chạy trốn chế độ „cộng sản“ của Hồ để di tản
về phương Nam đã đột ngột dâng lên một cách chưa từng có. Trong một thời gian
ngắn, với sự cố gắng nỗ lực cao cả và sự giúp đỡ của Mỹ, Pháp cùng các tổ chức
từ thiện quốc tế, Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã tổ chức di cư thành công cho hơn một
triệu đồng bào miền Bắc vào miền Nam, và ổn định cuộc sống cho đồng bào những năm
sau đó. Mặc cho sự tuyên truyền một chiều, tìm cách ngăn cản và xuyên tạc tẩy não
của Hồ và cái gọi là „đảng cộng sản“ của hắn lúc đó đang còn tìm cách che giấu
dã tâm khát máu, đại đa số đồng bào miền Bắc đã quyết tâm từ bỏ chế độ cộng sản
tại miền Bắc.
Trong dòng sử Việt, đây là cuộc di cư lịch sử lớn nhất vào thời điểm
đó. Nếu không bị những thủ đoạn gian manh tàn ác của Hồ để hòng ngăn cản đồng bào
di cư, qua mặt các tổ chức giám sát quốc tế thì dòng người di cư đã vượt xa nhiều
lần con số 1 triệu nói trên. Đại đa số đồng bào Việt Nam đã tỏ rõ thái độ phản
kháng chế độ cộng sản tại miền Bắc.
2.
Cái
gọi là „chính phủ“ của Hồ được giàn dựng bởi đảng cộng sản, trá hình Việt Minh,
thành hình bởi lừa đảo, cướp, gìết, khủng bố và mọi thủ đoạn khuynh đảo tiến đến
cướp trọn chính quyền của Chính Phủ Liên Hiệp năm 1946 đã không được nhân dân
miền Bắc chấp nhận. Hồ và đảng CS đã thi thố mọi thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc
và bạo lực nhằm ngăn cản dòng người đang phải dứt lòng bỏ lại xóm làng thân thương, quyết tâm vượt thoát chế độ cộng sản tìm đến bến bờ tự do nơi đất trời phương
Nam.
Cũng theo hiệp định Genève thì sau 2 năm, tức năm 1956 sẽ có một cuộc tổng
bầu cử toàn dân để dân chúng hai miền được tự do quyết định bỏ phiếu trong một
cuộc bầu cử dân chủ hợp hiến với mục đích là tái thống nhất đất nước. Cuộc bầu
cử sẽ được sự kiểm tra và giám sát của Liên hiệp quốc. Nhưng cả sau khi thời hạn
di cư, được gia hạn thêm một thời gian ngắn, ngoài thời hạn (300 ngày) đã hết và
nhiều năm sau đó, người dân bị trị miền Bắc vẫn còn tìm cách vượt thoát về phương
Nam. Tất cả những lần vượt thoát từ miền Bắc của đồng bào qua sông Bến Hải vào
Nam, khi bị quân đội miền Bắc phát hiện đều bị truy đuổi, chặn bắt, dùng tên tẩm
chất độc và cả vũ khí sát thương hạ sát (mặc dù theo quy định của hiệp định là
không được dùng vũ khí sát thương).
Tình trạng thê thảm tại biên giới Nam-Bắc Việt
Nam lúc đó cũng tương tự như hiện trạng nơi biên giới Đông-Tây của một nước Đức
từng bị chia cắt, hoặc tại khu vực biên giới Nam-Bắc Triều Tiên hiện tại, nhưng
về mức độ thì vượt mọi ranh giới của sự tàn ác và thê lương. Hiệp định Genève đã
bị Hồ xé tan và giẫm nát bằng chân từ lúc nó chưa thành hình.
3. Để có một tầm nhìn khái quát nhưng đầy
đủ về về tình hình Việt Nam sau hiệp định Genève 1954 thì văn bản „Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Cộng Hoàngày 26. Tháng Tư. 1958 về những vướng mắc trong vấn đề Tái thống nhất đất nước“ là một tài liệu đặc biệt hữu ích. Văn
kiện ngoại giao này được công bố ngày 26.04.1958 bởi văn phòng Sứ thần Việt Nam
Cộng Hoà tại Bonn, CHLB Đức. Nguyên bản hiện đang lưu trữ tại trung tâm lưu trữ
Văn khố thành phố Stuttgart, tiểu bang Baden Württemberg, CHLB Đức, có thể tìm
thấy dưới mã hiệu: „ J 152 D Vietnam Nr.1“.
4.
Cũng
trong làn sóng người di cư này đã có khoảng 3000 cán bộ cộng sản trà trộn theo
vào Nam, cũng như khoảng 6000 cán bộ cộng sản khác, đều theo lệnh của Hồ cài cắm
ở lại miền Nam, nằm vùng tạo dựng cơ sở cho cuộc chiến tranh xâm lăng Việt Nam
Cộng Hoà của Hồ sau này. Số cán binh nằm vùng này tăng lên không ngừng vào những
năm sau đó.
5. Miền
Nam Việt Nam trong trong giấc mộng xâm lăng của Hồ Chí Minh theo lệnh từ Moskau
và Bắc Kinh chỉ là cái bàn đạp đầu tiên. Cái đích của sự toan tính của Hồ nằm trong
giấc mộng xâm lăng của đế quốc đỏ, là chiếm cả Đông Dương, gồm cả Lào và
Campuchia.
6. Nói
về sự phát triển trong nhiều lĩnh vực như văn hoá, kinh tế, và đặc biệt là tôn
giáo trong chế độ ngụy quyền của Hồ lúc đó có thể so sánh là đã bị tụt lùi xuống
ngang hàng với thời hậu trung cổ tại châu Âu. Thực trạng Bắc Việt Nam đương thời
đã bị biến dạng thành một thứ ngục tù không tường vách, không khác gì với Bắc
Triều Tiên hiện tại, nhưng thực trạng này vẫn còn đúng với cả nước Việt Nam cộng
sản tới tận ngày hôm nay!
Cụm từ „Kommun + ismus“ có nguồn gốc từ Âu châu (
nguyên ngữ tiếng Đức: „Kommunismus“ ) đã bị Hồ và tay sai ma mãnh và xuẩn động dịch
sang tiếng Việt là „Cộng sản-chủ nghĩa“, với nghĩa chữ nước đôi của cụm từ „cộng
sản“ là „tài sản chung/ tài sản cộng đồng“ („gemeinsames Vermögen“), và đi kèm
theo nó nào là những „không giai cấp“, „vô sản“ và „bất sở hữu“ (riêng tư)…, sau
khi đã qua tay một tập thể trí nô vong bản, lưu manh, nhưng hùng hậu, tô vẽ và
tuyên truyền quảng bá cho nhân dân miền Bắc về một „thiên đường cộng sản“ sáng
lạn, trong đó „không còn ai được quyền sở hữu một thứ gì riêng tư“. Sự tuyên
truyền này về thực chất là một sự cưỡng bức tẩy não tập thể toàn dân. Sự cưỡng
bức tuyên truyền có tích chất „cách mạng“ của Hồ và đảng cộng sản nhìn cách nào
cũng chỉ là sự thừa hành lặp lại nguyên si lối hành xử tàn bạo của Stalin, và sự
thừa hành, sao chép bằng máu cái gọi là „cách mạng văn hoá“ của Mao Trạch Đông,
mà mổi mỗi đều dùng để chống lại chính nhân dân trong nước, triệt phá sức đề kháng
của quần chúng để dễ bề cai trị. Cái gọi là „Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà“ tại miền
Bắc, được giật dây, hà hơi tiếp sức trực tiếp của nước Nga Xô-viết và Tầu cộng đang
gồng mình chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lăng tiến về phía Nam. Sự tàn bạo của của chế độ ngụy quyền cộng sản
tại Bắc Việt Nam được che đậy bằng những cụm từ tanh mùi máu như „chuyên chính
vô sản“, cách mạng xã hội chủ nghiã v.v. và v.v. đã được các tác giả tên tuổi của
Việt Nam và thế giới tự do lật tẩy qua vô số các tác phẩm đã được công bố ngay
từ những ngày đầu chế độ này manh nha hình thành.
VÀO ĐỀ:
7.
Vào
thời điểm này tại miền Bắc thì tất cả hoạt động tôn giáo của nhân dân đều bị bộ
máy tuyên truyền CS tùy tiện kết án là „thuốc phiện của nhân dân“, „lạc hậu“, „mê
tín dị đoan“, „phản động“ cho đến „phản cách mạng“ hoặc
„gián điệp của các thế lực phương tây thù địch“ , tùy theo nhu cầu đàn áp của đảng,
và nhất định phải bị „bạo lực chuyên chính vô sản“ tiêu diệt bài trừ.
Bức tranh
vẽ bôi của Hồ về một „nhà nước cộng sản“ tại miền Bắc Việt Nam trên thực tế còn
đang ở thời kỳ hậu quân chủ, với nền sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu thô sơ và
đa phần dân chúng là nông dân. Nhưng vì phải rập khuôn theo mô thức từ nước Nga
và Tầu cộng sản nên đặc biệt từ những năm, khi đảng cs đã đặt được ách cai trị
toàn phần đối với dân chúng miền Bắc qua bộ máy quốc hội bù nhìn, thì đảng cs cũng
cho dựng lên các giáo hội giả hiệu như „Giáo hội Phật giáo“, „Giáo hội Thiên Chúa
giáo“, nhưng chỉ là những hội như „hội phụ nữ“, „hội nông dân“… cùng vô số các
hội tương tự, dưới sự lãnh đạo của đảng, thừa hành bởi „Mặt trận Tổ quốc“.
Đảng cộng sản có một rừng biển
hiệu chỉ để treo cho có như thế. Cùng chung một số phận như thế, các đảng như „đảng
dân chủ“, „đảng xã hội“ đều bị các cán bộ tay sai của Hồ thâm nhập, đục khoét từ
bên trong, tiến tới chỉ còn là những biển hiệu, những công cụ tay sai của đảng
cộng sản.
Một thực tại lịch sử là phần đông dân số Việt Nam theo đạo Phật, hoặc
có những nền tảng tâm linh và thế giới quan khoan dung đủ tầm quảng đại để đồng
hành với giáo lý Phật giáo. Thực tại này cũng chính là một yếu tố mà đối với chế
độ độc tài ngụy quyền cộng sản không thể nào coi nhẹ, hơn thế nữa các đạo giáo
có mặt tại Việt Nam đặc biệt là đạo Phật nói chung thực sự là một cơ hội béo bở,
và nhất thiết phải chịu sự khiển dụng của đảng, như một trong những công cụ đa
năng khác dành cho các mục tiêu của đảng cộng sản. Mưu mô hoạch định cho sự thành
hình của cái gọi là „Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất“ cùng những „Gia đình
Phật tử Việt Nam“ tại miền Nam đầu những năm 1960 đã được toan tính từ lâu trước
đó bởi „Bộ Chính trị“ đảng cộng sản tại…miền
Bắc.
Cũng vào thời gian này thì kế hoạch và guồng máy xâm lăng miền Nam của Hồ
từ Hà nội đang hoạt động hết tốc độ. Để
chuẩn bị cho cuộc thâm nhập trên „mặt trận tôn giáo“, có một số rất đông các cán
bộ đảng cộng sản được tuyển chọn huấn luyện và đào tạo ngắn hạn về Phật giáo tại
miền Bắc, chưa kể những số cán bộ nằm vùng trong Nam và số cơ hội bị lừa vào tròng.
Tất cả những cán bộ đã được cộng sản tẩy não này đều có chung một định hướng là
dùng vỏ bọc tôn giáo này để phá hoại và làm sao qua đó gây tạo cho được sự phản
loạn, bất ổn định với sức ảnh hưởng chính trị càng lớn càng tốt trong quần chúng
và các đô thị miền Nam. Để cuối cùng thì cái gọi là „GHPGVNTN“ đã được giật dây
để thành hình, cùng vô số các tổ chức tay chân trực thuộc của nó như „Gia đình
Phật tử Việt Nam“. Nhưng, như mục tiêu thâm độc của đảng CS, là những kẻ giật dây
khuynh đảo và điều khiển tổ chức này muốn đạt đến vào thời điểm đó là tạo vỏ bọc
để tuyên truyền ngụy trang và nhân danh nhân dân miền Nam, hậu thuẫn cho quân đội
cộng sản cùng một lúc xâm lăng miền Nam. Và đến tận ngày hôm nay GHPGVNTN vẫn còn
được dùng để làm cò mồi tuyên truyền cho các mục tiêu chính trị của đảng csvn.
Thich
Huyen Quang (geb. Le Dinh Nhan), links im Bild, der KP Kader im Mönchsgewand
bei der Vollversammlung und Bekanntgabe der UBCV im Jahr 1964 in Saigon.
*
Trong ành: (bên
trái) Thích Huyền Quang ( tức Lê Đình Nhàn), tên Việt gian tay sai cộng sản trá
hình tăng sỹ Phật giáo, đọc diễn văn tại đại hội ra mắt của GHPGVNTN tại Sài
gòn, năm 1964.
8.
Để
thực hiện mục tiêu này, tên đảng viên cộng sản đội lốt Phật giáo Thích Trí
Quang đã hoạt động phá hoại một cách điên cuồng, khích động, khuynh đảo, giật
giây một bộ phận lớn quần chúng và Phật tử miền Nam, tổ chức các cuộc biểu tình
phản loạn, xuống đường và „tự thiêu“ v.v. nhằm phá hoại tạo bất ổn định cho chính
quyền miền Nam. Hậu quả là dẫn đến cuộc đảo
chính phản tặc chống lại chính phủ VNCH, Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà đương nhiệm
Ngô Đình Diệm cùng bào đệ của ông đã bị sát hại trong cuộc đảo chính phản tặc này.
Phần chi tiết sẽ được đề cập ở các phần sau trong bài.
Thích
Trí Quang (geb. Phạm Văn Bồng), ein gefürchteter führender KP-Agent im
Mönchsgewand, ist einer der kaltblütigsten Haupt-Täter der sog.
"buddhistichen Rebellen" zugusten der nordvietn. Kommunisten im
Invasions-Krieg gegen die Süd-Republik Vietnam. Im Bild: Thich Tri Quang
als Titelbild des „Time“ Magazin, New York, USA 1963.
*
KP Kader Thich Tri Quang und der DDR Kommunist Erich Wulf
KP
Kader Thich Tri Quang im Mönchsgewand
und Komplizen demonstrieren vor dem Regierungsgebäude der Süd Republik Vietnam
in Saigon im Jahr 1963.
KP Kader Thich Tri Quang und der DDR Kommunist Erich Wulf
9.
Thích
Trí Quang, tức Phạm Văn Bồng, sinh tại làng Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, miền Trung Việt Nam. Theo tài liệu tình báo của
Pháp (sau này là „Phòng Nhì“) thì hắn đã gia nhập và là đảng viên đảng cộng sản
Việt Nam từ năm 1949. Lễ gia nhập đảng được tổ chức tại mật khu Lương Miêu, Dương
Hoà. kết nạp bởi Tố Hữu, tức Tôn Thất Lành, một trong những tên cán bộ cao cấp
của đảng CS Vìệt Nam. Cả CIA cũng như tình báo VNCH đều nắm rõ về vụ việc này.
Để có một tầm nhìn bao quát và cụ thể
hơn về những cán bộ Việt gian cộng sản giả danh Phật giáo núp áo nhà sư như Thích
Trí Quang, Thích Nhất Hạnh cùng đồng bọn và cái gọi là „GHPGVNTN“ thì tài liệu
sau đây của CIA đặc biệt hữu ích:
Language: English; Document Pages: 13; Date: 04 May 1967; Collection: Central Intelligence Agency Collection; Media Type: Document (.pdf); Full Text: Full Text is available for
this item. Return to the Virtual
Vietnam Archive and search for Item Number: 04109128007. Go to the More Information section
and change to the Full Text view.; View Item: Situation Appraisal of Buddhism as a Political
Force During Current Election Period Extending through September
1967, 04 May 1967, Folder 128, Box 09, Central Intelligence Agency
Collection, The Vietnam Center and Archive, Texas Tech University. Accessed 21
Aug. 2012.
Và bản dịch tiếng Việt hiện đang được đăng tải > tại đây <
Và bản dịch tiếng Việt hiện đang được đăng tải > tại đây <
10. Giật
dây hậu trường cuộc đảo chính này lại chính là đồng minh Hoa kỳ, qua bàn tay của
CIA, muốn lợi dụng cuộc đảo chính cho mục đích của Mỹ lúc đó. Vào thời điểm này
phiá Mỹ muốn trực tiếp can thiệp vào chiến tranh Việt Nam chứ không phải chỉ là
gián tiếp cung cấp vũ khí và cố vấn quân sự. Một cuộc đảo chính triệt hạ quyền
lực của chính phủ và tổng thống Ngô Đình Diệm thay thế bằng một chính quyền
khác dễ bảo hơn, hợp với sự „quan tâm“ của chính quyền Hoa Kỳ lúc đó. Sau khi
cuộc đảo chính lật đổ chính phủ đệ nhất Cộng Hoà có sự tiếp tay của CIA đã thành
toại, tên cộng sản Thích Trí Quang vẫn tiếp tục sách lược của đảng cộng sản
giao phó. Hắn vẫn tiếp tục khích động đồng bào và Phật tử miền Nam xuống đường
phản đối, gây phản loạn tiếp tục chống chính quyền mới và cực lực chống luôn cả
người Mỹ. Lần này chính quyền đệ nhị
VNCH và CIA đã cô lập bắt gọn Thích Trí Quang, nhưng do „ảnh hưởng“ của hắn với
lũ nằm vùng trong chính quyền VNCH hắn lại được tại ngoại và tiếp tục hoạt động
có lợi cho cộng sản. Xin nói thêm là loại trừ một trường hợp ngoại lệ duy nhất là
Thích Trí Quang đã bị đại tá Nguyễn Ngọc Loan bắt nhốt và cô lập sau khi không
còn một tướng lĩnh VNCH nào trước đó giám đối đầu với tên việt gian CS này. Đại
tá Nguyễn Ngọc Loan sau này đã được phong tướng. (Phần chi tiết xin xem „Biến Động
Miền Trung“ của tác giả Liên Thành, Thiếu tá cựu Trưởng ty Cảnh sát đặc biệt Thừa
Thiên - Huế, xuất bản năm 2010 - USA).
11. Một trong những đỉnh điểm tội ác cuộc
phản loạn này là vụ hành quyết thiêu sống Thích Quảng Đức, đã được giàn dựng để
tuyên truyền là „Thích Quảng Đức tự thiêu chống lại đàn áp Phật giáo“. Sự thực
là vụ này cũng như đa phần các vụ hỏa thiêu bức tử khác đã được các tên cộng sản
trá hình Phật giáo chuẩn bị rất kỹ lưỡng. Ban đầu Thích Quảng Đức được tẩy não
là hắn sắp thực thi một „sứ mạng quan trọng“, nhiều trợ lý đệ tử có chuyên môn y
khoa đã thường xuyên dùng các loại thuốc mê chuyên dụng biến cơ thể Thích Quảng
Đức trở nên đờ đẫn, thần kinh bị ức chế vô cảm. Để đến khi liều thuốc mê đặc dụng
cuối cùng tiêm vào cơ thể Thích Quảng Đức một cách rành nghề trước khi bị tên Nguyễn Công Hoan và đồng bọn chở và dìu vực ra nơi hành hình, thì Thích Quảng Đức
bấy giờ chỉ còn là một thân xác vô cảm với hệ thần kinh đã tê liệt. Rồi chính
Nguyễn Công Hoan đã dùng ít nhất là 10 Lit xăng đổ ngập lên đầu và người Thích
Quảng Đức, xăng chẩy thành vũng đọng quanh chỗ ngồi của kẻ bị hành quyết, và cũng
chính Thích Công Hoan dùng một bật lửa Zippo châm lửa từ xa, cái xác vô cảm đẫm
đầy xăng bắt lửa cháy ngay lập tức… Và tất
nhiên, một số đông các cán bộ cộng sản trá hình „tăng ni“ và cả „cảnh sát“ đã
được chuẩn bị trước để dàn hàng quây vòng xung quanh nơi hành hình, để quyết
thiêu cho bằng được Quảng Đức mà không bị cản trở. Quan trọng hơn cả là một vài
„nhà báo quốc tế“ đã đựợc chuẩn bị trước cho cuộc hành hình này cũng được giàn
xếp ngay nơi hiện trường, tức là có thể
chụp hình kẻ bị thiêu và „được phép“ ghi lại hình ảnh cảnh hành quyết một cách
rõ nét nhất. Với mục đích là ngay sau đó những hình ảnh sắc nét nhất thế giới này sẽ
qua tay giới truyền thông tới Mỹ và phương Tây, phục vụ cho mục đích tuyên truyền
của đảng cộng sản hòng lừa đảo dư luận cả thế giới. Kẻ bị hành quyết hỏa thiêu
chết cháy như than tại chỗ. Nguyễn Công Hoan hiện nay (năm 2012) đang ẩn náu
trong một cơ sở của Thích Nhất Hạnh tại Mỹ.
12. Đảng cộng sản Việt nam, „Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống Nhất - Ấn Quang“ và tất nhiên là cả Thích Nhất Hạnh cho đến
tận ngày hôm nay vẫn đang tìm mọi cách bôi xóa và chối bỏ tội ác là: chính
chúng đã giàn dựng và thực thi vụ hành quyết hỏa thiêu đặc biệt dã man này.
Hơn thế nữa, ngay từ đầu chúng đã giàn dựng ra hàng loạt những chuyện ly kỳ nhất
để loan đồn những chuyện hoang tưởng đạo đức giả, nhân danh Đạo Phật và Giáo lý
Phật giáo, hòng che mắt và đánh lừa dư luận cả thế giới. Nào là „Bồ Tát tự
thiêu“, "lửa từ bi", „Thánh Tử Đạo“.v.v.
13. Các vụ „Phật giáo tranh đấu“, biểu
tình phản loạn triền miên, rồi vụ hành quyết hỏa thiêu Thích Quảng Đức ngày
11.06.1963, chỉ là những thủ thuật dùng để gây rối đổ thêm dầu vào lửa, nhằm tạo
thêm chất nổ cho đỉnh điểm của nó, là vụ các tướng lĩnh phản tặc được sự giật
dây mua chuộc trực tiếp của CIA, được thực thi bởi „đội quân thứ ba“ của đảng tức
„Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam“ trong đó có giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống nhất“, lật đổ Chính thể Đệ nhất VNCH và sát hại tổng thống Ngô Đình Diệm
vào ngày 02.11.1963. Tất cả chỉ là diễn tiến một phần của một âm mưu đã được hoạch
định trước. Hoa Kỳ đã tìm mọi cách để lật đổ chính thể Đệ Nhất Cộng Hòa để có
thể qua đó có toàn quyền quyết định thao túng trực tiếp vào „công cuộc chống cộng
sản“ tại miền Nam.
14. Tất cả nhũng vụ „Phật giáo phản loạn“ cũng
như tin tức chiến sự tại miền Nam vào thời điểm này và cũng gần như xuốt thời
gian cuộc chiến Việt Nam, đều được giới báo chí, truyền thông bình luận chiến sự
và dân sự VNCH, đồng minh phương Tây và cả khối cộng sản loan tải. Tuyên truyền
theo kiểu tẩy não một chiều của khối cộng sản đông Âu và Bắc-Việt thì đã là lẽ
hiển nhiên dễ hiểu. Nhưng rõ ràng là đã có một sự che chắn, thông tin một chiều
có chủ ý, được định hướng bởi Hoa Kỳ. Hậu quả là tại phương Tây, đặc biệt là tại
Mỹ, những bản tin về tình hình chiến sự tại Việt Nam đã bị bóp méo một cách
nghiêm trọng. Thật mỉa mai vô cùng là nội dung các bản tin chiến sự đã được
loan tải này lại hoàn toàn có chiều hướng làm lợi cho quân đội lê dương cộng sản
của Hồ, một tập đoàn đánh thuê của Bắc Kinh và Moskau.
15. Một trường hợp cụ thể là, vì cái chiêu
bài giả danh đội lốt Phật giáo do „GHPGVNTN khối Ấn Quang“, Nhất Hạnh, Võ Văn
Ái và khối „thiên tả“ làm rùm beng, giật dây khích động phản loạn rồi tung tin
tuyên truyền, bôi nhọ xuyên tạc rằng „chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp Phật
giáo“, do vậy Chính phủ VNCH đã chủ động trực tiếp mời một phái đoàn quan sát của
Hội đồng liên hiệp quốc tới Việt Nam Cộng
Hòa để điều tra làm rõ vụ việc. Mặc dù với sự giúp đỡ tận tình của Chính Phủ
VNCH trong điểu kiện thực tế, phái đoàn điều tra đã chỉ có thể đưa ra một kết
luận trung thực là dưới chính quyền của tổng thống Ngô Đình Diệm tuyệt nhiên
không hề có sự đàn áp tôn giáo. Những luận điệu cáo buộc bôi nhọ chính quyền
VNCH đã được loan đi bởi các phương tiện truyền thông và báo chí đa phần là
thân cộng sản tại phương Tây đã bị phái đoàn điều tra vạch mặt là những luận điệu
tuyên truyền vu khống thâm độc ác ý. Một bản điều trần về những gì mắt thấy tai
nghe tại Việt Nam Cộng Hòa nói lên sự thật trên, đã được phái đoàn chuẩn bị hoàn
tất để điều trần trước dư luận thế giới trong phiên họp ấn định của hội đồng LHQ. Nhưng cũng vào giờ phút trót bản điều trần
đã bị chính những nhân vật cấp cao của Nhà Trắng „điều đình“ và cản trở một
cách bí mật, để hậu quả là bản điều trần đó đã bị giấu nhẹm đi và đã không được
chính thức công bố.
16. Cho đến tận ngày hôm nay năm 2012,
trên các phương tiện truyền thông chính thức, và cả trong các sách giáo khoa của
các trường đại học tại Mỹ vẫn còn đầy rẫy những tin một chiều hoàn toàn sai lệch
dường như có chủ ý về sự thật chiến tranh Việt Nam, tung hô có lợi cho đảng cs…Tầu,
và đảng cs Việt Nam. Mặc dù hàng loạt những tài liệu của Lầu Năm Góc về các sự
thật bí ẩn trong chiến tranh Việt Nam đã được giải mật và công bố. Mặc cho sự
ra đời của bộ sách „Hồ sơ đen về chủ nghĩa Cộng sản“ đã trở nên nổi tiếng. Mặc
cho sự ra đời của hàng loạt các phẩm, tác giả đã công bố, đã bạch hóa sự thật về
thực chất của cuộc chiến tranh Việt Nam của chính các tác giả phương Tây đã trở
nên nổi tiếng. Cụ thể nhất là trong năm 2006, chính Đại Hội đồng Quốc Hội Châu
Âu (PACE) đã ra quyết nghị số 1481 về việc đặc biệt cần thiết phải truy tố tội
ác các đảng cộng sản và chủ nghĩa cộng sản ra trước tòa án quốc tế về tội ác dã
man chống nhân loại của chúng.
17. Vụ sát hại tổng thống Ngô Đình Diệm có
sự bật đèn xanh từ Pentagon (Lầu Năm Góc) của Mỹ xét về thực chất cũng là một
thứ lệnh bức tử Chính thể nền Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam. Mặc
dù trong hoàn cảnh thời chiến nhưng dưới Chính thể Ngô Đình Diệm, Việt Nam Cộng
Hòa đã đạt được một sự phát triển đáng nể phục. Với một nền kinh tế thị trường
tự do, được bảo đảm bằng một nền hiến pháp nhân bản và tôn trọng dân chủ thực sự.
Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng là vị tổng thống đầu tiên trong lịch sử Việt Nam
được nhân dân bầu cử một cách hợp hiến pháp. Nhưng không còn gì mỉa mai và
ngang trái hơn là chính Henry Alfred Kissinger và tên „trưởng đoàn ngoại giao“
của Hồ là Lê Đức Thọ sau hiệp định Paris 1973 về Việt Nam đã được xưng tụng để cùng
nhận giải Nobel „Hòa bình“. Với hiệp định Paris, về thực chất đã hợp thức hóa
và che đậy sự rút lui của quân đội Mỹ ra khỏi chiến trường Việt Nam một cách
„danh dự“. Nhưng trên thực tế trần trụi là những tay điều hành guồng máy chiến
tranh tại Nhà Trắng đã phản bội, bán rẻ VNCH
và 17 triệu nhân dân miền Nam cho bàn tay đẫm máu của đội quân xâm lăng miền Bắc,
tay sai của đế quốc thực dân đỏ. Thọ đã „từ chối“ nhận lãnh giải thưởng dành
cho hắn, vì guồng máy bắn giết của của hắn, một bộ phận tay sai của đế quốc đỏ
vẫn không hề ngừng chuyển động cho tới ngày 30. 04.1975, khi xích xe tăng Nga được
quân đội của Hồ mang tới giày xéo khắp lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Hàng triệu triệu
người miền Nam được biết thế nào là tắm máu kiểu đế quốc đỏ, đều tìm cách trốn
chạy thoát khỏi thần chết đỏ bằng tất cả mọi cách, mọi con đường có thể có, kể
cả là phải bỏ mình trên muôn trùng sóng gió đại dương mong tìm đường vượt thoát
tới bến bờ tự do. Người Mỹ cũng chạy thoát thân như thế. Sự kinh hoàng khủng
khiếp không bút nào tả xiết, đã vượt mọi ranh giới có thể tưởng tượng. Và cả thế
giới đã ngậm ngùi nhưng câm lặng chứng kiến cảnh tượng thê lương hãi hùng kia. Chỉ
3 năm sau, cũng những vệt xích xích xe tăng Nga này lại tràn ngập đất nước
Campuchia.
18. Trở lại năm 1964, GHPGVNTN được thành
lập và tự nó đã là một thứ vỏ bọc lý tưởng, đủ rộng để đảng CS có thể tùy khiển
dụng giật dây nó theo nhu cầu từng giai đoạn. Các miền, hệ phái và truyền thống
Phật giáo khác cũng đã từng được quy tụ quanh GHPGVNTN vào thời điểm thành lập.
Nhưng đã sớm nhận ra sự giàn dựng, thâm nhập của các cán bộ cộng sản và cả lũ nằm
vùng (trá hình „khối Phật giáo Ấn Quang“) để hoạt động cho cộng sản, nên đều tỏ
ra thất vọng và xa lánh. Thượng tọaThích Tâm Châu là một điển hình, vì đã tỏ thái độ không muốn bị mãi lôi kéo mãi
vào vòng „tranh đấu“, phản loạn, nên đã bị các tên CS núp áo nhà sư, trâng tráo
dùng bạo lực đe dọa sát hại, cưỡng bức phải rời khỏi trọng trách lãnh đạo tâm
linh của mình. Lãnh đạo tinh thần của các hệ phái khác cũng dần xa lánh cái
„tinh thần Phật giáo tranh đấu“ giả hiệu này. GHPGVNTN do vậy đã bị đảng cộng sản
„rút hết ruột“, còn lại cái xác, dùng làm biển treo, như môt công cụ tay sai
trá hình để tiếp tục nhân danh đại đa số quần chúng Phật giáo xuống đường đấu
tranh cho các mục tiêu của đảng cộng sản.
19. Một trong những tội ác tiêu biểu đẫm
máu nhất của GHPGVNTN là vụ thảm sát dân thường Huế vào dịp Tết Mậu Thân năm
1968. Cộng sản gọi là „tổng tiến công nổi dậy“. Trong 26 ngày quân đội cộng sản
Bắc-Việt đã tạm thời cưỡng chiếm thành phố Huế. Trong thời gian này có ít nhất
5327 người đã bị sát hại dã man, 1200 người bị bắt đi mất tích. Những cán bộ cộng
sản trá hình Phật giáo nằm vùng, biệt danh là „đội quân thứ 3“ của đảng cộng sản
Việt Nam, là những thủ phạm chính thực thi tội ác trong vụ thảm sát dân thường đặc
biệt man rợ này. (Phần chi tiết xin xem „Biến Động Miền Trung“ của tác giả Liên
Thành, Thiếu tá cựu Trưởng ty Cảnh sát đặc biệt Thừa Thiên - Huế, xuất bản năm
2010 - USA).
Khai màn cho cuộc tắm máu này là tiếng súng khai hỏa bởi quân đội CS Bắc-Việt nổ đúng vào đêm giao thừa tấn công thành nội Huế, lật lọng bất ngờ phá tan quy ước đình chiến ba ngày Tết giữa hai miền Nam-Bắc. Lính cộng sản quần đùi áo đen đột ngột xuất hiện, cùng hàng loạt các cán bộ cộng sản nằm vùng xuất đầu lộ diện, đồng loạt ra mặt công khai, đi từng nhà từng nhà, lùng bắt, thẳng tay bắn giết dân thường Huế một cách dã man vô tội vạ.
Lá cờ ba mảnh, xanh-đỏ-xanh, 1 sao vàng (không phải xanh, đỏ, 1 sao vàng, của lũ cộng sản nằm vùng, trá hình „Lực lượng Liên minh dân tộc dân chủ hòa bình“ do những tên Thích Đôn Hậu, Lê Văn Hảo làm chủ tịch) được cắm trên kỳ đài Thành Nội Huế trong xuốt thời gian quân cộng sản tạm cưỡng chiếm thành phố. 10 ngàn quân cộng sản trong cuộc „tổng tiến công nổi dậy“ đã núp bóng dưới lá cờ giả hiệu của Thích Đôn Hậu để bắn giết. Hàng loạt các „ủy ban quân quản, tự vệ khu phố“, các „toàn án nhân dân“, „chính quyền cách mạng“…, do những tên giáo sư, sinh viên và đủ loại tầng lớp nằm vùng cho cộng sản được đồng loạt dựng lên chớp nhoáng trên đường phố. Và các màn xử tử hình bắn giết trả thù vô cùng dã man oan nghiệt diễn ra ngay tại chỗ, khắp nơi trong thành phố Huế. Các tên như Thích Đôn Hậu, Thích Thiện Siêu, Thích Chánh Trực, Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân và Lê Thị Đoan Trinh…, là một trong những tên tội phạm, sát thủ khét tiếng của cộng sản trong vụ thảm sát này.
Dân chúng Huế đã phải bỏ chạy trong kinh hoàng, tuyệt vọng đau thương. Hàng ngàn dân thường trong đó có cả trẻ em, người già và phụ nữ bị bắt trói từng đoàn từng nhóm bằng giây điện thoại và bị cưỡng bức giải đi ra các miền ven đô hoang vắng của Huế. Nơi đó họ đã bị các toán cán bộ cộng sản hành quyết tập thể một cách đặc biệt dã man mọi rợ.
Để „tiết kiệm đạn“, phần đông trong số họ đã bị giết chết bằng các vật dụng thô sơ như cuốc xẻng, mà trước đó họ đã phải dùng để đào huyệt cho chính mình. Hàng loạt đạn bắn vào những loạt người đứng trước, họ đã ngã xuống trong tiếng gào rú rùng rợn cùng cực thê thảm của hàng loạt những người khác cùng bị trói phải ngã theo xuống huyệt, để cùng bị vùi lấp, bị chôn sống và chết thảm. Cảnh tượng thật rùng rợn thê lương, ngẹn nghào không bút mực nào tả xiết. Theo thống kê của cảnh sát Việt Nam Cộng Hòa năm 1968 tại Huế thì đã có ít nhất 5365 thường dân Huế bị sát hại dã man bằng những hình thức thảm sát tập thể này. Trong đó có 3 giáo sư bác sỹ y khoa người Đức được chính phủ Tây Đức gửi đến trường đại học Y khoa Huế giảng dậy trong khuôn khổ giao tế dân sự và nhân đạo. Các giáo sư trên cũng đã bị sát hại bằng những phát súng bắn trực tiếp vào đầu sau khi họ bị cưỡng bức phải đào huyệt cho chính mình. Nơi họ bị cộng sản hành quyết chính là sân sau của chùa Tường Vân, một trong những trụ sở dã chiến của những cán bộ cs trá hình Phật giáo. Sau đây là tên các giáo sư bác sỹ bị sát hại: Prof. Dr. Raimund Discher, Prof. Dr. Alois Alteköster, Prof. Dr. Horst-Günter Krainick và người vợ của ông Elisabeth.
Ein Nachruf
auf die deutschen Ärzte von Hué
Von H. C.
Nonnemann
Zwei
von vielen Massengräbern der
Massaker, gefunden in Hue im Februar 1968, in dem über 5327 Hue Bewohner durch den Vietcong gewaltsam ermordet wurden. Foto von LIFE Magazin im 01. April. 1969.
Massaker, gefunden in Hue im Februar 1968, in dem über 5327 Hue Bewohner durch den Vietcong gewaltsam ermordet wurden. Foto von LIFE Magazin im 01. April. 1969.
*
Trên
đây là hai trong nhiều hố chôn tập thể của của cuộc thảm sát tập thể, được tìm
thấy vào tháng 2. 1968 tại Huế, trong đó hơn 5327 nạn nhân bị Việt cộng tàn sát
dã man. Ảnh của thời báo LIFE Magazin ngày 01.Tháng Tư. 1969.
Thích Đôn Hậu ( Diêp Truong Thuan),
tên cộng sản trá hình trong áo „ tăng thống Phật giáo“ – Một trong những tên
thủ phạm nguy hiểm nhất của cuộc thảm sát đồng bào Huế vào dịp Tết Mậu Thân
1968. Hơn 5327 thường dân đã bị tàn sát dã man bởi quân đội cộng sản trá hình , núp dưới lá cờ „
Liên minh các lực lượng đân chủ hòa bình hòa giải dân tộc“ của đảng csvn do những tên Thích Đôn Hậu và Lê Văn Hảo làm
chủ tịch. Trong số nạn nhân có 4 bác sỹ giáo sư người Đức, được chính phủ Tây Đức gửi tới trường đại học y khoa Huế
giảng dậy trong chương trình viện trợ giao tế dân sự. Các nạn nhân trên bị hành
quyết bởi những nhát súng bắn trực tiếp vào đầu, được tìm thấy dưới hố chôn sau
chùa Tường Vân, một trong những trụ sở dã chiến của đám cán bộ cộng sản trá
hình Phật giáo. Tên các vị bác sỹ bị giết hại là:
Dr. Raimund Discher.
Dr. Horst-Günter Krainick, và người vợ của ông Elisabeth.
Dr. Alois Alteköster.
Dr. Horst-Günter Krainick, và người vợ của ông Elisabeth.
Dr. Alois Alteköster.
Tội phạm sát nhân Lê Văn Hảo |
Tội phạm sát nhân Hoàng Phủ Ngọc Tường |
Tội phạm sát nhân Hoàng Phủ Ngọc Phan |
Tội phạm sát nhân Nguyễn Đắc Xuân |
Im Bild: Von links nach rechts: Le Van Hao, Hoang
Phu Ngoc Tuong, Hoang Phu Ngoc Phan (geb. Hoang Ngoc Hop), Nguyen Dac Xuan, die
kaltblütigsten Hinrichtungskommando Führer der vietn. KP im Hue Massaker 1968.
Aktuelle Fotos.
*
Trong
ảnh: Là các hình ảnh hiện nay của một trong những tên đầu xỏ sát thủ trực tiếp
tàn ác nhất của đảng csvn trong vụ thảm sát đồng bào tại Huế năm 1968. Từ trái
sang là Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan (Hoàng Ngọc Hợp),
Nguyễn Đắc Xuân,
1- Linkes Bild: Ankunft in Ulan Bator, Flughafen, 1969.
KP - Thich Don Hau im Mönchsgewand und KP Kader Ton That
Duong Tiem schlagen die Werbetrommel für die UBCV und die verdeckten Kampffronten der KP in der
kommunist. Mongolei.
2-
Rechtes Bild: Thich Don Hau plaudert mit dem KP General der
Volks-Befreiungsarmee Vo Nguyen Giap im Jahr 1976.
20. Sau 26 ngày chiếm đóng Huế, quân đội cộng
sản bị thủy quân lục chiến Mỹ và quân lực Việt Nam Cộng Hòa đẩy lui, Huế còn lại
là một thành phố hoang tàn xơ xác, rùng rợn thê lương. Huế hoang tàn đổ nát, và
khắp nơi tràn đầy tử khí ghê rợn. Trong
các nhà thờ, chùa… máu còn lênh láng, người ta dìu kéo nhau đi tìm các hố chôn
tập thể, Bãi Dâu, Khe Đá Mài…, mỗi lần một hố chôn tập thể được tìm thấy là mổi
lần lại có thêm hàng trăm, hàng ngàn người dân Huế khác phải nghẹn ngào
xé nát con tim, vĩnh viễn quấn lên đầu vòng tang trắng oan nghiệt, Huế giờ đã
tràn ngập mầu tang.
21. Đằng sau mưu đồ hiếu chiến của cuộc tấn
công chiếm đóng và thảm sát dân Huế man rợ của cộng sản Hà nội là chúng toan
tính muốn một lần chớp nhoáng chiếm gọn Huế.
Những tính toán của những kẻ hoạch định chủ mưu cho rằng „dân chúng Huế
sẽ ủng hộ và đứng về phía bộ đội cộng sản“, đã vỡ tan tành, mỗi mỗi mảnh vỡ lộ
rõ những tham vọng sặc mùi…Việt-gian cộng sản. Vì trên thực tế người dân Huế
đã chạy trốn quân cộng sản để thoát thân, kinh hoàng còn hơn chạy trốn thần chết.
Những tên cộng sản gỉa danh trá hình Phật giáo núp áo tu hành cùng lũ tay sai bội
phản nằm vùng hoạt động cho cộng sản đã bị lộ tẩy. Để giữ cho bộ mặt những tên cộng
sản trá hình Phật giáo cùng đồng bọn và lũ tay sai sát thủ này không bao giờ bị lôi ra ánh sáng, và
để trả thù cho việc dân Huế phản kháng cộng sản, những kẻ chủ mưu là bộ chính
trị đảng cộng sản Việt Nam qua tay lũ cán bộ cs trá hình Phật giáo đã ra lệnh
thảm sát đồng bào Huế. Kế hoạch dùng sự nội ứng của „đội quân thứ ba“ đánh và chiếm
Huế một cách chớp nhoáng đã không thành hiện thực. Quân đội Cộng sản và các tên
cộng sản trá hình đã bị lật tẩy, lần lượt tìm cách tẩu thoát lên các căn cứ địa
mật khu của cộng sản.
22. Huế không phải là nơi duy nhất chịu thảm
nạn trong cuộc „tổng tiến công nổi dậy“ vào dịp Tết Mậu Thân 1968 bởi tay của
lũ cs trá hình Phật giáo này. Nhưng cuộc
đánh lấn để chiếm Huế của cs là một trận khởi điểm có tầm mức đặc biệt quan trọng
trong mưu mô của cs, vì Huế nằm sát với biên giới Bắc Việt cộng sản. Kinh thành Huế có vị trí đặc
biệt quan trọng, đặc biệt là Huế đã nằm trong kế hoạch của cs, là sau khi chiếm
được, Huế sẽ được dùng làm „thủ đô“ của
cái gọi là „Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam“, hợp thức hóa con bài công cụ
tay sai cò mồi của cộng sản miền Bắc trong công cuộc xâm lấn từng bước toàn bộ
lãnh thổ VNCH. Cái „mặt trận“ trá hình này đã được cộng sản Bắc-Việt dùng như một
bình phong, công cụ trá hình để đánh lạc
hướng dư luận thế giới, che giấu sự tham chiến phi pháp của quân đội cộng sản Bắc-Việt trong cuộc xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa. Nên
trong dịp Tết Mậu Thân, đồng bào Huế đã bị cộng sản thảm sát oan nghiệt nặng nề
nhất so với các thành phố đô thị miền Nam khác cũng bị tấn công trong dịp này.
23. Tại California USA, trong năm 2010, một
„Ủy ban truy tố tội ác đảng cộng sản Việt nam“ đã được thành lập do các cựu quân nhân
sỹ quan Quân lực Việt Nam Cộng Hòa và các cựu tù nhân chính trị tỵ nạn chế độ ngụy
quyền Việt gian cộng sản khởi xướng. Thu thập dữ liệu khởi tố liên quan tới vụ cộng
sản thảm sát đồng bào Huế vào dịp Tết Mậu Thân1968.
Địa chỉ hộp thư của Ủy ban: P.O.BOX 6147. FULLERTON, CA. 92843, USA; Tel.: 001. 626 257 1057; E-Mail: huemauthan1968@gmail.com
Địa chỉ tổ hợp luật sư thụ lý hồ sơ khởi tố: Tổ hợp luật sư quốc tế: OKT – OLTHUIS KLEER TOWSHED. LLP; 229 College Street, 3 Floor; Toronto, Ontario M5t 1r4; Nữ luật sư: N. Kate Kempton. Tel.: 001. (416) 981-937. E-Mail: kkempton@ktlaw.com
Chủ tịch Ủy ban là ông Nguyễn Phúc Liên Thành, thiếu tá quân lực Việt Nam Cộng Hòa, cựu trưởng ty cảnh sát đặc biệt tỉnh Thừa Thiên-Huế. Mục tiêu tiên khởi của ủy ban nhằm thu thập các lời khai nhân chứng, số và tư liệu nạn nhân, tất cả những dữ liệu về những kẻ chủ mưu ra lệnh, chủ phạm, tòng phạm, sát thủ trực tiếp và liên đới v.v., khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là đảng cộng sản Việt Nam và các tên cán bộ cộng sản và tay sai trá hình Phật giáo, nhằm truy tố tội ác của chúng ra tòa án quốc tế tại Den Haag. Uỷ ban này mong có được sự hợp tác giúp đỡ, cung cấp các tư liệu, lời kể, hồi ký ức của các nhân chứng còn sống xót, những người thân của nạn nhân có liên quan. Ví dụ như những thân nhân của các bác sỹ người Đức đã bị sát hại, nên viết lại những hồi ức, hoặc kỷ niệm, hoặc đã từng chứng kiến v.v.
Đến nay ông Liên Thành đã hoàn thành và cho xuất bản hai tác phẩm và ít nhất là một trang blog liên quan đến vụ Thảm sát Huế Tết Mậu Thân 1968. Quyển thứ nhất là: “Biến động miền Trung”, xuất bản năm 2010, quyển thứ hai, xuất bản năm 2012, có tựa đề: ”Huế - Thảm sát Mậu Thân 1968 – Tội ác đảng cộng sản Việt Nam”. Trong 2 cuốn sách kể trên, vì là một chứng nhân đương thời, hơn nữa, trong một cương vị đặc biệt của ngành cảnh sát đặc biệt có liên quan trực tiếp tới biến cố trên, nên tác giả đã mô tả sống động, chân thực và đưa ra các chứng cớ có giá trị lịch sử đặc biệt khả tín. Tác giả đã mô tả và chứng minh mạch lạc, chi tiết diễn tiến của vụ việc, gần như từng ngày, về các cán bộ cộng sản và tay sai núp trong các vỏ bọc ngụy trang trá hình Phật giáo như “GHPGVNTN”, hoặc “Lực lượng liên minh dân tộc dân chủ hòa bình”…đã trực tiếp nhúng tay vào tội ác thảm sát dân Huế vào dịp Tết Mậu Thân 1968 như thế nào.
24. Những
tên cộng sản trá hình Phật giáo như Thích Nhất Hạnh, Thích Quảng Độ…và GHPGVNTN
trên khắp thế giới, trong đó có GHPGVNTN của Thích Như Điển tại Đức đang cuống
cuồng lo sợ trước sự hiện diện của hai quyển sách trên và công việc của
UBTTTADCSVN. GHPGVNTN khắp nơi trên thế giới đặc biệt là tại Mỹ, các tay chân của
“giáo hội” như “gia đình Phật tử Việt Nam”, các loại “lực lượng” như cái gọi là
“lực lượng cư sỹ chấn hưng Phật giáo”… được lệnh của GHPGVNTN tung ra dùng mọi
cách để xuyên tạc, cản trở công việc của Ủy ban này và những cá nhân hội đoàn
nói lên sự thật. Các thủ đoạn đã được tập đoàn cs trá hình “giáo hội Phật giáo
Việt Nam thống nhất” này dùng đến để bôi xóa tội ác thật bẩn thỉu. Từ vu khống
đến đe dọa sát hại tính mạng. Mới đây nhất, chính ông chủ tịch ủy ban đã thoát
hiểm trong muôn một bởi những phát súng ám sát hụt của những kẻ thuộc hạ trên.
Nội vụ đang được giới chức an ninh Mỹ điều tra.
25. Cái
gọi là “GHPGVNTN” như trên đã dẫn, đã được đảng cs giật dây lèo lái từ những
năm 1964, nhưng những mưu đồ thủ đoạn ma mãnh khiển dụng các tôn giáo, đặc biệt
là Phật giáo để trá hình và làm vỏ bọc ngụy trang cho đảng cs đã được tên Hồ
Chí Minh khởi xướng, hoạch định thành đường lối của đảng cs Việt Nam từ những
năm 1940. Thực chất của những thủ đoạn này là tìm mọi cách để từng bước một, cướp
hoặc lợi dụng các tổ chức, hội đoàn rồi trá hình tổ chức đó dùng cho những mục
đích riêng càng ngày càng thâm độc hơn. Để thực thi mưu đồ đó, các cán bộ cs và
các cư sỹ tay sai ban đầu phải trá hình thụ động để „thâm nhập thực tế“, sau
này khi đã „say mùi hương khói“ và được đảng cs đào tạo nhiều hơn về Phật giáo,
chúng có thể tùy tiện xuyên tạc Giáo lý
và Kinh điển Phật giáo một cách xuẩn động tinh vi cho những mục tiêu định trước.
Hàng loạt các „hội“, các „đoàn thể Phật giáo“ được các cán bộ cs đoàn ngũ hóa rồi
phù phép cho thành hình để rồi lại biến mất một cách nhanh chóng, tùy ẩn hiện như
những „nghị quyết“ của đảng cs.
Tiền thân là những hội thanh thiếu nhi sinh viên và các loại tầng
lớp „Phật giáo cứu quốc“, „Gia đình Phật tử Việt Nam“, sau này là những „Lực lượng
Phật giáo tranh thủ cách mạng“, rồi „chiến đoàn Phật tử Trần Đại Thức“ có trang
bị vũ khí v.v. Các thanh thiếu niên được đoàn ngũ hóa, tẩy não và huấn luyện để
trở thành những „Thanh niên Phật tử„ có
thể „sẵn sàng tranh đấu“, làm hậu thuẫn cho những mục đích quân sự.
Để có thể đoàn ngũ hóa khối quần chúng Phật giáo rồi giật dây theo ý của đảng cs, các cán bộ cs nằm vùng đã tìm mọi cách chia rẽ ly gián, không chừa bạo lực, khủng bố để cô lập các vị chân tu với khối quần chúng, và cuối cùng là triệt hạ những vị này gần như phải xa lìa hẳn môi trường thực hành tôn giáo tâm linh truyền thống. Để cuối cùng, các chùa tự chỉ còn lại là nơi ẩn náu của đám cán bộ cs trá hình Phật giáo. Bây giờ là thời điểm để một số nhất định các cán bộ được đảng cs khoác cho những bình phong trá hình thảm thương như „Phật giáo bị đàn áp“ để đánh lừa dư luận. Đồng thời để tạo ra một màn kịch trá hình là „tại Việt Nam tôn giáo bị đàn áp“, để qua đó các cán bộ trá hình Phật giáo của đảng cs tại nước ngoài như Thích Nhất Hạnh, Võ Văn Ái, trong nước như Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, Thich Huyền Quang, Thích Quảng Độ có thể che giấu kỹ hơn bộ mặt đểu giả của chúng trong chiêu bài „Pháp nạn“, „Đấu tranh cho hòa bình tự do, chống đàn áp tôn giáo“…
Cùng lúc này, theo như hệ thống tuyên truyền của đảng cs thì tại Bắc-Việt Nam cũng như tất cả các nước cộng sản xhcn khác „tự do tôn giáo“ tràn trề, cũng như tất cả mọi thứ khác đều „không thể tốt đẹp hơn được nữa“.
Đảng cs tin rằng thế giới bên ngoài, đặc biệt là phương Tây hết còn có thể nhìn thấu các ngón nghề thủ đoạn ma mãnh của chúng. Cái gọi là „GHPGVNTN“ đã bị “rút hết ruột” này, mặc dù đã nhất cử nhất động đều theo nhịp gậy chỉ huy của đảng, mà đối với đảng csvn, „giáo hội“ vẫn chẳng đáng để tin tưởng hoàn toàn, nên „GHPGVNTN“ phải là một hội viên của „Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam“ và chịu sự „chỉ đạo“ trực tiếp của „bộ chính trị„ đảng csvn.
Kinder
der sog. „Buddhistischen Familie“ wurden
von der UBCV und der „Süden-National Befreiungsfront“ der KP als
Demonstranten für die Straßenblockade ausgenutzt, um das Vordringen der
südvietnamesischen Armee zu verhindern.
Vietcong´s Kindersoldaten im Dienst der „Süden – National
Befreiungsfront“
*
Ành
bên trái: Các thanh thiếu nhi của cái gọi là „ Gia đình Phật Tử Việt Nam“, bị
„GHPGVNTN“ và “Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam“ lợi dụng đẩy xuống đường
biểu tình ngồi, tương tự như „phong trào Bàn thờ Phật xuống đường“, làm vật cản
bước tiến của quân lực VNCH. Ành bên phải: Lính nhí Việt cộng, còn gọi là „bộ đội
con“ bị đẩy ra bắn giết, chết thí cho lực lượng trá hình của đảng csvn là „ Mặt
trận dân tộc giải phóng miền Nam“.
26. Trong mưu đồ xâm lăng của cs Bắc-Việt
vào miền Nam, GHPGVNTN đã là một công cụ đắc lực để thừa hành thực thi tội ác của
đảng cs vn. Một trong những tội ác tầy trời như trên đã dẫn, là vụ thảm
sát đồng bào Huế vào dịp Tết Mậu Thân
năm 1968. Sau khi quân cs nhận định tình hình chiến sự tại chỗ cho thấy chúng đã vỡ mộng chiếm Huế một cách chớp nhoáng, nên ngày 22.02.1968, tên Thích
Đôn Hậu (tức “Diệp Trương Thuần“) trá hình trong vỏ bọc „tăng thống Phật giáo“
đã nhận mật lệnh của đảng csvn qua tay tên điệp báo viên nằm vùng Hoàng Kim
Loan ra lệnh cho hơn 200 cán bộ cs bắt đầu thực thi cuộc thảm sát hàng loạt dân
chúng Huế để trả thù, thủ tiêu các nhân chứng.
Như trên đã dẫn tổng số người bị
giết hại đã lên đến trên 5000 người và trên 1200 người khác bị bắt đi mất
tích. Các nạn nhân đa phần là dân thường, cả phụ nữ và trẻ em, đã bị chúng bắt
trói, cưỡng bức giải đi ra các vùng ven đô Huế và bị sát hại ở đó. Khoảng 300
thanh thiếu niên cũng bị các toán cán bộ sát thủ hành quyết của cs bắt đi theo
để đào các huyệt mộ cho cuộc hành hình thảm sát này, để cuối cùng, cũng bị
chúng sát hại hòng thủ tiêu xoá hết mọi tang chứng. Một tên cán binh cs đã lừng chừng thực thi lệnh
hành quyết tập thể trên, vì hắn vốn quen giết người trên mặt trận chứ chưa quen
giết người như thế này. Nhưng lúc đó „giết“ là tất cả những gì chúng học thuộc
nhất và còn lại trong đầu, nên lệnh hành quyết của đảng csvn đã được chúng thực
thi trọn vẹn.
27. Những nhân chứng, nạn nhân trực tiếp
còn sống xót của vụ thảm sát này mỗi lần hồi tưởng quá khứ là mỗi lần phải ngẹn
ngào trong nỗi đau xé thắt tâm can. Một nam nhân chứng hy hữu còn sống sót hồi
tưởng lại cơn ác mộng kinh hoàng nhức nhối đã hành hạ anh hơn bốn mươi mùa xuân
qua, khi anh còn là một thiếu niên bị toán sát thủ của cộng sản cưỡng ép bắt đi
đào huyệt cho vụ thảm sát vào một ngày Tết năm xưa. Dưới sức ép của họng súng
đe dọa bởi toán cán binh cs, cậu bé thiếu niên đã phải xúc đất đổ xuống huyệt,
đổ lấp lên những người còn sống, bị trói và xô ngã xuống huyệt. Máu và nước mắt
đã nhòa trộn cùng mỗi xẻng đất mà cậu bé phải xúc đổ xuống huyệt, dần lấp đi những
ánh mắt thân thể của những con người đang vùng vẫy, gào rú, dần tắt ngấm đi vì kiệt
sức, van lơn đòi sự sống. Giọng người kể lại rung lên và nghẹn đi trong nỗi oan
nghiệt đến vô cùng của sức chịu đựng: „Ôi
trời cao đất dầy ôi! Ôi Việt cộng dã man!
Sao Việt cộng mi dã man như vầy? Sao bắt tui phải chôn sống đồng bào
tui…? Ôi nghiệp quả báo nào…, ôi, tui đã chôn sống đồng bào tui…, ôi Việt cộng,
sao mi man rợ như rứa…?“. Lời người kể lại hôm nay thường tắt đi trong nỗi
đau oan nghiệt, nghẹn nghào, tràn nghập nước mắt như thế. Và hết huyệt này đến
huyệt khác cậu bé phải làm công việc đó cho đến khi cùng một thiếu niên khác liều
mình lợi dụng bóng tối tháo chạy được vào rừng, bỏ lại sau lưng là một trời mưa
đạn bắn theo bởi lũ sát nhân chuyên nghiệp cộng sản. Hai đứa đã thoát chết
trong đường tơ kẽ tóc, nhưng không một ai trong số 5327 người khác sống sót
trong cuộc tắm máu trả thù man rợ có một không hai trong lịch sử của lũ sát
nhân tay sai đảng csvn.
28.
29. Ngày 30. 04.1975 gần 500 tên tay sai cộng
sản trá hình „Tăng, Ni“ Phật giáo của cái gọi là „Đại học Phật giáo Vạn Hạnh“ kéo
nhau ra ngã tư Bẩy Hiền, cửa ngõ Sài Gòn hân hoan chào đón và hướng dẫn cho xe
tăng cộng sản vào chiếm giữ các vị trí quan trọng trong thành phố. Cũng theo một
kế hoạch trù bị khác của cộng sản, nếu tình hình bi đát hơn dự tính thì khoảng
7000 sinh viên trực thuộc của đại học Vạn Hạnh đã cất giấu vũ khí, sẽ bắn vào
sau lưng quân lực Việt Nam Cộng Hòa khi quân đội cộng sản tiến đánh thành phố.
Khi quân cộng sản đã tràn ngập thành phố thì những tên cộng sản trá hình “tăng
ni” này, một số có trang bị vũ khí đã trực tiếp dẫn đường chỉ lối, đưa các tên cán
binh cộng sản đi lùng sục từng nhà để tìm bắt các nhân vật quan trọng của chính
quyền Việt Nam Cộng Hòa mà chúng coi là nguy hiểm hoặc „người của CIA“, bắt mang
đi giết và thủ tiêu ngay trong đêm, một số đông bị chúng thủ tiêu xác bằng cách
thả trôi sông, số người bị giết lên đến hàng nghìn người. Cảnh bắn giết thủ
tiêu này diễn ra trên khắp các đô thị miền nam. Sau đó, cũng những tên cs núp
áo tu hành này đã tự xuất đầu lộ diện, nhiều tên xuất hiện trong quân phục cộng
sản, có cả quân hàm, tay đeo băng đỏ, mặt mũi đằng đằng khí thế “cách mạng”
công khai xuất hiện khắp nơi trong thành phố, chúng là một trong những “cán bộ”
đầu tiên của chế độ ngụy quyền cộng sản tại miền nam Việt Nam.
”Đại học viện Phật
giáo Vạn Hạnh” là một trong những địa điểm đầu tiên được quân cs biến thành “trụ
sở trình diện” dành cho các sỹ quan quân lực nhân viên chính quyền, chính phủ
VNCH ra “trình diện, khai báo”. Trực sẵn tại đây có mặt những tên cs đầu trọc
nham nhở, trong những bộ đồ cà sa “tăng sỹ Phật giáo”, thâm hiểm hơn cả những
tên trong quân phục “bộ đội”, súng ống đầy hăm dọa. Vì là lũ chỉ điểm nằm vùng chuyên
nghiệp của đcs trong thành phố nên chúng có đầy đủ danh sách của những người
chúng cần phải tìm giệt. Bổn cũ xoạn lại: những quân dân cán chính của chính
quyền VNCH bị truy bắt ra trình diện, phải chuẩn bị hành trang cá nhân đi “tập
trung học tập cải tạo 10 ngày”. Về thực chất, những cái gọi là “trại tập trung
học tập cải tạo” này là những mồ huyệt sống, nơi cs cầm tù, tra tấn hành hình, sát
hại bức tử nạn nhân dã man vô hạn định. Nếu có, hạn định này sẽ do đcsvn tùy
nghi định đoạt.
Auch
diese KP Kader unter Mönchsgewand schwenken jetzt die KP-Parteiflagge in ihrer
Hand und feiern demonstrativ den „Sieg-Feiertag“ 30.04.75 von Ho Chi Minh und
der vietn. KP in Saigon.
*
Cũng
những tên tay sai cộng sản trá hình Phật giáo này hân hoan vẫy lá cờ đỏ vấy máu
của đảng cscn, diễu hành mừng „ngày đại thắng lợi“ 30.04.1975 của Hồ Chí Minh
và đảng csvn tại Sài gòn.
30. Tên “tăng thống” tự phong Thích Huyền
Quang (tục danh Lê Đình Nhàn), nhân dịp đại hội GHPGVNTN năm 1981 đã “lỡ mồm”, tự
hào tự xác nhận những tội ác bất khả bôi xóa của chính hắn, đcsvn và GHPGVNTN
như sau: “…Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất ba lần có công với cách mạng (của đcsvn)…”, và “…chúng tôi (GHPGVNTN) lập ra chính phủ Phật giáo của Tổng thống Dương
Văn Minh để giao cho chính quyền cách mạng (của đcsvn)”.
Nguyễn
Xuân Bảo - viet. KP-Agent im
Mönchsgewand unter dem Namen Thich Nhat Hanh, agiert mit vorgetäuschten
"Anti Vietnam Kriegs"(?) Parolen zugunsten der vietn.
Kommunisten seit dem Jahr 1960, bis heute.
31. Trở lại dòng sự kiện: Vào ngày
17.10.1970, một “phái đoàn Phật giáo” gồm Thích Nhất Hạnh, Thích Thiện Minh và
những tên cộng sản trá hình khác lên đường sang Tokyo dự hội nghị quốc tế “Tôn
giáo và Hòa bình”. Tại đây chúng trơ trẽn
đưa ra cái gọi là “đề nghị 5 điểm”. Cả về hình thức lẫn nội dung, nó chính là “đề
nghị 5 điểm” của “Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam”, cũng tức là của đcsvn.
Luận điệu xảo trá của những đòi hỏi này là “đòi quân đội Mỹ và đồng minh phải
rút khỏi Việt Nam”, “để dân tộc Việt Nam tự quyết”….Những tên cs trá hình này bị
các thành viên của hội nghị quốc tế chất vấn bằng những câu hỏi trực diện, là
chúng đang đại diện cho ai để đưa ra những đòi hỏi đó? Tại sao chúng chỉ đòi hỏi
quân đội Mỹ và đồng minh rút lui, mà không đòi hỏi quân đội Bắc-Việt ngừng ngay
lập tức cuộc chiến xâm lăng của chúng chống Việt Nam Cộng Hòa? Thích Nhất Hạnh
và đồng bọn đã đồng loạt trở nên câm ngọng một cách lạ thường vì không thể trả
lời những câu hỏi.
32. Trong thời gian này Thích Đôn Hậu cùng
vợ là Tuần Chi, tức Đào Thị Xuân Yến, cả hai y thị được các chi bộ đảng cs nằm
vùng tổ chức cho bí mật vượt tuyến ra Bắc gặp Hồ Chí Minh. Hồ cử Thích Đôn Hậu
và tên cs Tôn Thất Dương Tiềm và phái đoàn đi tháp tùng sang các nước khối
Đông-Âu hoặc cs như Đông-Đức, Hungary, Mông Cổ để tuyên truyền, quảng bá các khẩu
hiệu xảo ngữ trá hình cho Hồ và đảng cộng sản.
33. Qua những lần công vụ tuyên truyền cho
đảng cs này, Thích Đôn Hậu và các đồng chí cs của y đã cố tình xuyên tạc bôi vẽ
ra một bức tranh hoàn toàn sai lệch về chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Một mặt thì
chúng xuyên tạc bôi bẩn rằng chính phủ VNCH tham nhũng, yếu kém, mặt khác chúng
tán tụng Hồ Chí Minh và miền Bắc cộng sản XHCN lên tận mây xanh. Cùng một chí
hướng này, cặp Thích Nhất Hạnh cùng người tình đồng chí Florett Cao Ngọc Phượng
và hai tên cộng sản tay sai Võ Văn Ái, Pelelope Faulkner tổ chức các cuộc biểu
tình tại Tây Âu, Đức, Pháp và Mỹ với những khẩu hiệu trá hình “ Chống chiến
tranh Việt Nam” để đánh lạc hướng, lừa đảo dư luận thế giới trên tinh thần hậu thuẫn có lợi cho chế độ ngụy
quyền đảng cộng sản vn.
34. Qua tay lũ cán bộ cộng sản trá hình Phật
giáo, được điều hành và giật dây trực tiếp bởi đcs, phát động cuộc chiến xâm
lăng của Bắc-Việt vào lãnh thổ VNCH bằng
các thủ đoạn “tôn giáo”, đã biến các đô thị miền nam rơi vào tình trạng biến động
bất ổn thường xuyên. Cơ chế luật pháp của xã hội tại Việt Nam Cộng Hòa là một
thành quả của một hiến pháp có tam pháp quyền phân lập, thực sự dân chủ tự do,
nhưng đồng thời cũng lại là một cơ hội béo bở, để lũ cán bộ cộng sản thâm nhập
từ miền Bắc có thể lợi dụng tối đa. Chúng đã tìm mọi cách để trà trộn rồi công
khai hoạt động phá hoại, chống phá chính quyền quốc gia, nhưng luôn tìm cách ẩn
náu trá hình trong những vỏ bọc ngụy trang “hợp pháp”. Những tên cộng sản đầu xỏ như Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích
Quảng Độ…thường tạo mọi cơ hội có thể được, tìm cách tuyên truyền xách động động
quần chúng Phật giáo bằng những khẩu hiệu trá hình, cố tình khiêu khích, nhằm châm
các ngòi nổ tạo phản loạn. Vì bất kể sự đối phó nào từ phía chính quyền VNCH nhằm
bảo đảm an ninh, thiết lập lại trật tự công cộng cho dân chúng, đều bị lũ cs
trá hình này lợi dụng khai thác cho thủ đoạn chiến lược mà đảng csvn đang theo
đuổi, là làm sao có thể đánh lừa dư luận rồi xuyên tạc là Chính quyền Ngô Đình
Diệm “đàn áp Tôn giáo”. Để chúng lấy cớ tiếp tục khích động những quần chúng Phật
tử nhẹ dạ châm ngòi nổ cho những cuộc xuống đường tranh đấu biểu tình lớn hơn nữa.
Chúng đã dùng tất cả mọi phương cách thủ đoạn để xách động quần chúng xuống đường,
từ loan đồn thất thiệt, tuyên truyền tẩy não đến khủng bố và bạo lực.
Khai thác và lợi dụng sự tin tưởng một cách đặc biệt mù quáng của một số đông khối quần chúng Phật tử thuần thành, nhẹ dạ, đồng hoá tấm áo cà sa với “tăng sỹ”, với “Phật giáo”. Nên những tên cs lưu manh đầu xỏ như Thích Đôn Hậu, Thích Trí Quang, Thích Nhất Hạnh… đã có thể dễ dàng lừa đảo giắt mũi số “Phật tử” mê muội này, để khiển dụng cho mưu mô thâm độc của chúng. Vì mê muội, nên đã có rất đông những công chức, nhân viên trong tất cả các tầng lớp của bộ máy công quyền Việt Nam Cộng Hòa từ nông thôn tới thành thị, đã bị mắc mưu, tình nguyện hùa theo lũ cộng sản trá hình này làm Việt gian phản tặc, chống lại chính quyền trung ương Việt Nam Cộng Hòa.
35. Vào thời điểm này, thanh thế của GHPGVNTN
khối Ấn Quang do những tên cs trá hình đầu xỏ như Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu
thao túng, đã đạt đến đỉnh điểm về mức độ độc hại. GHPGVNTN về thực chất đã trở
thành một lực lượng chính trị có thế lực khuynh đảo đặc biệt nguy hiểm, đáng lo
ngại đối với chính quyền trung ương VNCH. Núp trong vỏ bọc Phật giáo, những tên
cộng sản trá hình đầu xỏ đã hành xử một cách trâng tráo, giật dây chính trường
VNCH như thể chúng là những dân biểu thượng nghị sỹ không ngai. Quyền lực đen của
chúng đã có tác dụng đe dọa trực tiếp, ảnh hưởng đến tình hình chiến sự có lợi
cho cộng sản. Chúng đã có thể khiển dụng lũ phản tặc nằm vùng trong bộ máy công
quyền chính phủ VNCH để tùy tiện “thăng giáng” ban phát chức vụ cho đệ tử của
chúng và lũ tay chân cơ hội, tùy theo những yêu cầu chiến sự được hoạch định bởi
bộ chính trị đcs tại Hà Nội.
36. Sau
khi nuốt trọn món bả độc tuyên truyền cộng sản của Thích Trí Quang và GHPGVNTN,
một số không ít tướng tá phản tặc nằm trong quân lực VNCH đã tuyên bố ly khai,
dùng chính phương tiện vũ khí của chính phủ chống lại quân đội chính phủ trung
ương. Thích Trí Quang và GHPGVNTN của đảng cộng sản cũng đã chuẩn bị nhiều lực
lượng trù bị trá hình và công khai, có trang bị vũ khí ở các cấp khác nhau để
giao chiến đối đầu với quân đội quốc gia VNCH. Trường hợp tiêu biểu là “Chiến
đoàn Nguyễn Đại Thức” có trang bị vũ khí do Thích Trí Quang thành lập. (Nguyễn
Đại Thức là một tên cộng sản thuộc hạ của Thích Trí Quang, đã bị bắn hạ bởi một
xạ thủ trực thăng Mỹ, phần chi tiết xin xem “Biến động Miền Trung” của tác giả
Liên Thành).
Vì sự tuyên truyền tẩy não ma mãnh có hệ thống của cs nấp sau những
vỏ bọc ngụy trang là Phật giáo, nên đội quân ly khai phản tặc này sẵn sàng quay
lại bắn giết và chết cho một cuộc “chiến tranh thần thánh bảo vệ Pháp nạn” của “GHPGVNTN”,
“Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam” và những tên cộng sản trá hình Phật giáo
này. Theo chân đội quân ly khai phản tặc này là một số đông quần chúng, đồng
bào ở tất cả mọi tầng lớp bị khích động giật dây, đã hưởng ứng một cách mù
quáng các cuộc xuống đường tuần hành bạo động chống lại chính quyền, làm cho
tình hình chính trị tại các đô thị miền nam càng ngày trở nên có lợi hơn cho cộng
sản. Các thanh thiếu nhi ”Phật tử” cũng bị cs lợi dụng tẩy não để đẩy vào vòng
lửa đạn, được trang bị vũ khí để trở thành những bia đạn sống, chết thế cho
quân đội cs, khi mang bom mìn, chất nổ tham gia phá hoại các cơ sở, phương tiện
quân sự và phi quân sự của Mỹ và chính quyền VNCH như: Thư viện, đại sứ quán Mỹ,
chợ, cư xá và các rạp chiếu bóng v.v.
37. Đại
đa phần các Chùa, Tự và các cơ sở tôn giáo bị sự khiển dụng của GHPGVNTN khối Ấn
Quang đều đã bị lũ cán bộ cộng sản trá hình biến thành những hang ổ của quân đội
cs. Dưới đáy các tượng Phật là những hầm bí mật chứa vũ khí chất nổ, phương tiện
quân sự dự trữ cho quân đội cs. Kể cả dưới nền chuồng heo cũng là nơi cs đào hầm
ẩn náu. Nhiều chùa biến thành trụ sở dã chiến, cơ sở hội họp, giao liên bí mật,
được ngụy trang trá hình bởi các tên cs nằm vùng núp trong lớp áo “tăng sỹ Phật
giáo”. Có chùa biến thành những nơi giam giữ và hành hình các quân dân cán
chính của chính quyền VNCH.
38. Những
biến động phản loạn triền miên của lũ cs trá hình Phật giáo tranh đấu này chỉ
được vãn hồi tạm thời yên ổn trở lại sau nhiều cuộc phản công dẹp loạn của quân
lực Việt Nam Cộng Hòa và quân đội Mỹ. Thích Trí Quang, tên cs khét tiếng của
phong trào “Phật giáo phản loạn” đã bị thiếu tá Nguyễn Ngọc Loan tóm gọn, bắt
giam và cách ly tại Sài gòn. Trước đó, hắn đã từng được chính CIA giàn dựng cho
chạy trốn trong Đại sứ quán Mỹ, để tránh sự truy nã của cảnh sát đặc biệt
VNCH. Nhưng rồi Thích Trí Quang cũng như
hàng loạt những tên cs đầu xỏ khác bị chính quyền bắt giữ đều được đồng bọn là
lũ cs nằm vùng leo sâu trèo cao trong bộ máy chính quyền trung ương VNCH tìm
cách ảnh hưởng để làm giảm nhẹ, xóa tội hoặc thoát vòng truy tố của pháp luật.
Để rồi được chính tay những tên làm nội gián cho cộng sản, trá hình trong chính quyền trung ương VNCH, nhân danh pháp
luật VNCH “phóng thích” về với…cộng sản. Kể cả tên “tổng thống một ngày” Dương
Văn Minh sau này cũng đã bị lật mặt là tay sai của cs Bắc -Việt.
39. Cuộc
chiến tự vệ chính nghĩa của nhân dân miền Nam Việt Nam với sự góp sức của quân
đội đồng minh và Mỹ chống lại sự xâm lăng của cộng sản nhìn về cục diện, đã từ
lợi thế, dần trở nên mất thế cân bằng và chịu sự tổn thất ngày càng lớn lao. Đặc
biệt là từ lúc quân đội Mỹ tham chiến trực tiếp vào chiến trường Việt Nam. Hai
sự kiện "sai lầm chiến thuật" nổi bật phải kể đến, ảnh hưởng nặng nề vào cuộc chiến
Việt Nam có lợi cho khối cs, đánh dấu sự "sai lầm chiến lược", nhưng có tính toán rất kỹ càng, xuất phát từ lợi ích của siêu cường quốc Mỹ: Thứ nhất là: Sự đảo chính lật đổ chính phủ đệ nhất VNCH và
sát hại cố tổng thống Ngô Đình Diệm vào ngày 02.11.1963, được giật dây bởi CIA
và Nhà Trắng, thực thi bởi lũ tướng tá phản tặc cùng lũ cộng sản trá hình Phật
giáo GHPGVNTN. Thứ hai là: Cuộc đi đêm sau
hậu trường giữa Hoa Kỳ và Trung cộng qua những cuộc gặp gỡ tay đôi giữa Mao Trạch
Đông/ Nixon, Chu Ân Lai và Henry Kissinger tại Bắc Kinh vào năm 1972.
Qua những cuộc “đi đêm” này, Hoa Kỳ muốn làm sao có thể rút chân khỏi chiến trường Việt Nam trong “danh dự”, và quay lưng bán rẻ miền nam Việt Nam cho “khối cs” có thể toàn quyền tự do hoành hành chiếm trọn miền Nam Việt Nam. Trên thực tế, cộng sản Bắc-Việt đã thẳng tay xâm lược, bắn giết và tắm máu miền Nam không hạn chế, và cuối cùng trong cơn say máu đã biến toàn cõi Việt Nam thành một ngục tù vĩ đại không tường vách. Chúng đã tự nguyện làm tay sai thực thi khát vọng xâm lăng của lũ đế quốc thực dân đỏ cho tới ngày hôm nay. Dư luận của cả thế giới tự do và phương Tây đã bất lực, câm lặng đứng nhìn thảm cảnh trên.
40. Sự đeo
bám dai dẳng, trơ trẽn và lưu manh, giả danh trá hình lợi dụng vỏ bọc tôn giáo,
Phật giáo, đặc biệt là sự khiển dụng vỏ bọc ngụy trang GHPGVNTN một cách có hệ
thống, làm phương tiện đánh lạc hướng, che giấu, bôi xóa tội ác xâm lăng bắn giết
trong xuốt chiều dài tồn tại của đảng csvn thực sự là một thủ đoạn tội ác vô
cùng tanh bẩn, nghiêm trọng có một không hai trong lịch sử Việt nam và lịch sử
chiến tranh thế giới. Như vậy, những cá nhân, đội ngũ, tổ chức của những tên cs
giả danh đội lốt núp áo nhà sư trá hình Phật giáo là một trong những cánh quân đắc
lực, nguy hiểm và xảo quyệt nhất trực thuộc đảng cộng sản Việt Nam.
41. Thích
Nhất Hạnh cùng đồng bọn “cánh tả” của y trong nước cũng như tại Đông và Tây Âu
đã xuyên tạc, đánh lạc hướng và bóp méo sự thật một cách có hiệu quả về bản chất
của cuộc chiến tranh Việt nam trước công luận thế giới. Chúng cũng đạt được mục
đích tạm thời là che đậy và bôi xóa phần nào dãy núi tội ác trùng trùng chất chứa
của đảng cộng sản vn trước công luận thế giới. Cũng như vậy, bộ máy truyền
thông cộng sản tại phương Tây đã góp phần không nhỏ vào việc bóp méo sự thật và
tô vẽ giàn dựng ra một cái nhìn hoàn toàn sai lệch về cuộc chiến tranh tại Việt
Nam là: “do phía Việt Nam Cộng Hòa, quân đội Mỹ và đồng minh khởi sự gây chiến”.
Chỉ có Thích Nhất Hạnh cùng đồng bọn lưu manh là Đảng csvn đến giờ vẫn còn tin
rằng chỉ có một mình chúng là còn có mắt mà thôi.
42. Như
trên đã dẫn, với sự trợ giúp của mạng lưới tình báo, điệp báo viên cộng sản hoạt
động tại nước ngoài đặc biệt là tại các nước phương Tây, Thích Nhất Hạnh và Võ
Văn Ái cùng các đồng chí cộng sản của y đã thực thi những màn tuyên truyền xách
động với khẩu hiệu xảo trá là “chống chiến tranh Việt nam” theo chỉ thị, có lợi
cho đảng csvn. Về thực chất đảng csvn đã xé tan và giẫm nát bằng gót giầy hai
hiệp định về Việt Nam tại Genève năm 1954 và Paris năm 1973, theo lệnh của quốc
tế cộng sản, (là Nga xô và Tầu cộng) khởi động và theo đuổi cuộc chiến xâm lăng
quốc gia Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam.
43. Trong
hậu trường chính trị của những tay lái súng vào những màn cuối cùng nổi bật nhất
của cuộc chiến tại Việt Nam (1972) phải kể đến “canh bạc cửa hậu” giữa ngoại
trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger/Chu Ân Lai và tổng thống Mỹ Nixon/Mao Trạch Đông tại
Bắc Kinh, và tất nhiên kẻ vẫy đuôi rối rít chầu rìa canh bạc này đích thị là…Việt
cộng. Theo đó quân đội Mỹ và đồng minh sẽ cắt giảm vũ khí và rút lui trong tư
thế khả thi nhất khỏi chến trường Nam-Việt Nam, chỉ để lại cố vấn quân sự. Về
chiến lược là Hoa Kỳ đã “bàn giao” Việt Nam Cộng Hòa vào tay Bắc Kinh cộng sản,
một trong những kẻ kề cận, trực tiếp hà hơi tiếp sức cho cộng sản Hà nội trong
cuộc chiến xâm lăng này. Để canh bạc này cũng có “màn kết” như ai, giới truyền
thông báo chí, bình luận chiến sự bất lương tại phương Tây, đặc biệt to mồm là
của đảng cộng sản Mỹ đã ra sức tuyên truyền không hạn chế, xuyên tạc các bản
tin tình hình chiến sự tại Việt Nam dường như rất có lợi cho kẻ đang chầu rìa
canh bạc nói trên. Các bản tin trên đều thanh đồng thanh nói ngược lại với tình
hình chiến sự thực tế, là “cuộc chiến Việt Nam đã đi vào bế tắc, quân đội Mỹ đã
thiệt hại nặng nề và chỉ còn một cách duy nhất là rút khỏi Việt Nam”. Trên thực
tế, nếu không có sự hà hơi tiếp sức của Trung cộng, Nga xô cũng như thái độ lập
lờ thả lỏng có dụng ý của Nhà Trắng thì cuộc chiến xâm lăng của quân đội cộng sản
Bắc-Việt đã không bao giờ có thể tiến được một bước nào hướng về phương Nam.
Das „Hintertürgeschäft“ zwischen Henry A. Kissinger, Nixon und Mao´s Kanzler Chou An Lais in Peking, am 20. Juni. 1972. Der Inhalt des Gespräches ist aufgezeichnet und bereits veröffentlicht.
*
„Canh bạc cửa hậu“ giữa Henry
Kissinger, Nixon và „thủ tướng“ của Mao là Chu Ân Lai tại Bắc kinh ngày
20.06.1972. Nội dung cuộc giàn xếp đã được ghi lại và công bố.
44. Vậy là tất cả những gì trước đó Hoa Kỳ
gọi là „liên minh chống cộng sản“ tại miền Nam Việt Nam đã bỗng chốc trở thành
những khái niệm mỉa mai báo trước những hệ lụy vô cùng thê thảm. Những thế lực
cầm cân nẩy mực các động thái trên chiến trường Việt Nam tại Nhà Trắng về thực
chất đã buông tay thả lỏng, bật đèn xanh cho khối cộng sản, Trung cộng và Bắc
Việt có thể xâm lăng không hạn chế Việt Nam Cộng Hòa. Hàng triệu triệu người
dân miền Nam đã phải chạy nạn quân đội cộng sản Bắc Việt bằng tất cả các con đường
có thể có. Sự khát máu trả thù và mức độ tàn bạo kiểu Stalin của quân đội xâm
lăng cộng sản Bắc Việt trên thực tế đã vượt xa ranh giới mọi sự suy tưởng.
45. Từ ngày Hồ và đảng cs của y tự nguyện
làm Việt gian theo mệnh lệnh của „quốc tế 3 cộng sản“, manh động dùng các thủ
đoạn bạo lực cướp chính quyền của Chính phủ Liên Hiệp vào năm 1946 (xin nhấn mạnh
là: cướp!), thì bộ máy cầm quyền bù nhìn
của Hồ đã hiện nguyên tà tướng là một thứ tay sai của quốc tế cộng sản, đặc biệt
là cộng sản Nga-Xô. Chưa đủ, quốc tế cộng sản còn có thêm một cái Cravatte mầu
đỏ nữa, nhưng Hồ quàng cả hai, nhìn kỹ là cái thòng lọng của Mao và đcs Tầu. Mà
Cravatte Tầu nổi tiếng ví như cái thòng lọng thắt không chết ngay, cho nên Hồ
và tay sai đã phải chịu đeo mãi đến tận ngày hôm nay. Vì phải đeo đẳng mãi cái tròng „lý tưởng cộng
sản“ của những thế lực đế quốc thực dân đỏ, nên Hồ và đảng cs của y đã quyết
tâm tẩy não toàn dân là: "dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn" cũng phải cướp cho
bằng được miền Nam. Nay Trường Sơn đã xơ xác cháy rụi, miền Nam đã quằn quại dưới
xích xe tăng Nga, xanh rờn mầu áo bộ đội bằng vải khaki Tầu, nhưng cũng chưa thể
đủ. Phải nhuộm đỏ cả Lào, Campuchia và bán đảo đông dương thì Hồ Chí Minh và „đảng
cs đông dương“(!) mới tạm hoàn thành nhiệm vụ. Do vậy, quân đội đảng cộng sản
Việt nam thừa thắng tiến đánh Campuchia, vì đã dự trữ sẵn màn tuyên truyền tẩy
não thanh niên là đi làm „nghĩa vụ quốc tế“. Lần này để thế chân dãy Trường Sơn
đã bị đốt cháy, là vô số thanh niên miền Nam, theo danh từ của đcs là: „con của
Mỹ, Ngụy“. Đó là một trong những lý do xẩy ra cuộc „chiến tranh biên giới Việt-Trung“
vào tháng 2. 1979. Về thực chất chỉ là một „bài học“ của đảng cs Tầu dành riêng
trừng phạt đảng cs Việt Nam. Nhưng mỗi lần có biến, muôn lần như một, đảng csvn
tùy tiện vồ lấy những gì bấy lâu nay thường cướp trắng được của nhân dân là
xương máu vô hạn và lòng yêu nước có thừa, đem ra tế sống, trả giá cho những
bài học muôn năm không thuộc của đảng csvn.
46. Trở lại với vấn đề truyền thông trong cuộc
biến loạn đầy tội ác của GHPGVNTN vào những năm 1963 và những năm sau đó. Với sự
hậu thuẫn của CIA và đảng csvn, thực thi trực tiếp bởi tay các cán bộ cs trá
hình „tăng sỹ Phật giáo“ GHPGVNTN. Một kẻ thực thi tội ác, một kẻ xuyên tạc bóp
méo dư luận quốc tế tại phương Tây. Cuộc hành hình hỏa thiêu đặc biệt dã man tên
Thích Quảng Đức đã bị bộ máy truyền thông khối cộng sản bóp méo xuyên tạc
thành: “Nhà sư tự thiêu, phản đối đàn áp
tôn giáo của chính phủ VNCH“. Để góp phần lèo lái đánh lạc hướng dư luận Mỹ
và phương Tây.
Thích Nhất Hạnh, tên cộng
sản trá hình Phật giáo và đồng bọn đã hô hào xách động giới sinh viên đông và
Tây Âu qua chiêu bài „phản chiến“, xuống đường biểu tình bằng những khẩu hiệu xảo
trá „phản đối chiến tranh Việt Nam“. Cộng thêm sự tuyên truyền hùng hậu của giới
báo chí bất lương, từng được giật dây bởi CIA, dư luận và công luận quốc tế về
cuộc chiến tranh của Mỹ tại chiến trường Việt Nam do vậy đã bị bóp méo sai lệch
nghiêm trọng, nghiêng hẳn về phía có lợi cho đảng csvn. Cuộc chiến xâm lăng của
khối cs và quân đội cộng sản Bắc-Việt đã được bôi trát tô hồng để biến thành cuộc
„chiến tranh giải phóng dân tộc“ cùng vô số
những luận điệu xảo ngữ tương tự. Cái gọi là „đại thắng lợi“ của quân đội
cs chắc chắn đã phải tiêu tàn phá sản nếu không nhờ những đòn ngón im lặng phản
trắc có dụng ý của Mỹ và khối đồng minh.
47. Cái gọi là “đảng cộng sản Việt nam“,
mà mỗi đảng viên của nó nói cho thật đúng nghĩa của chữ đó, thì chưa từng có một
tên nào, từ đầu xỏ cho đến tay sai đáng được gọi là „cộng sản“ cả. Càng chẳng
thể dùng đến danh từ thông dụng „cánh tả“, „thiên tả“ (cũng hàm ý có nguồn gốc
„cộng sản“) hiện đang dùng tại châu Âu và phương Tây, cụ thể là tại Đức, là một
trong những nơi sản sinh ra nó. Ở đây vẫn còn phải gọi chúng là „cộng sản“ bởi
vì ngoài những lý do khác…, là nhất thiết phải giữ nguyên trạng những cấu thành
quan trọng làm nên tội ác không thể xóa bỏ của một can phạm, tổ chức, đã và
đang nhân danh lạm dụng trá hình hết thảy mọi danh tự khái niệm để gây tội ác (đi
sâu vào vấn đề này chưa phải là mục đích của bài viết này, phần chi tiết hơn sẽ
đề cập trong phần 2., sau bài này). Những gợi đề chi tiết đặc biệt có giá trị chủ
đạo vạch mặt „đảng cộng sản Việt nam“, về thực chất chỉ là một tập đoàn Việt
gian giả danh trá hình „cộng sản“, xin xem thêm các tác phẩm „Sự tích con yêu râu xanh ở Việt Nam“
hoặc „Những tên đặc công đỏ trong phong
trào đòi hỏi dân chủ cho Việt Nam“, phần cập nhật mới nhất trong năm 2012 của
chính tác giả Nhà báo Việt Thường, hoặc của các tác giả Việt Nam và thế giới nổi
tiếng khác.
Về thực chất, đảng csvn, đại diện bởi tên đầu đảng xảo quyệt đại Việt
gian Hồ Chí Minh, cùng những đồng đảng đồng chí tay sai kế thừa hiện nay chỉ là
một tập đoàn ô hợp vong bản, đã và đang dùng tất cả mọi phương tiện và con đường
tội ác, tiếp tục phản bội Tổ quốc và dân tộc Việt Nam, chỉ để nhằm thỏa mãn cơn
đói khát vô độ tham vọng quyền lực thống trị.
Từ ngày thành lập vào những năm 1930 đến nay là năm 2012, lịch sử tồn tại của đảng cộng sản Việt Nam đồng nghĩa với chiều dài của sự bội phản và tất cả những gì là tội ác chồng chất của đảng csvn đối với đất nước, dân tộc Việt nam và nhân loại. Những di hại tổn thất do những tội ác của đcsvn gây ra là những vết thương vô cùng độc hại và nghiêm trọng. Nếu ngay bây giờ đây, hay trong một ngày mai… rất gần, cái tập đoàn phản dân bán nước này bị nhân dân Việt Nam vùng lên truy quét đập tan xóa sổ, thì những vết thương không thể chữa lành này chắc chắn sẽ còn mãi mãi để lại những hậu quả di chứng, tổn thất và mất mát vô cùng sâu đậm cho muôn đời thế hệ con cháu người Việt nam trong mai hậu. „Trúc Lam Sơn không ghi hết tội. Nước Đông Hải chẳng rửa sạch tanh hôi“: Sẽ là một phần lời kết án để đời mà muôn thế hệ người Việt Nam sẽ hằng ghi nhớ không quên, dành sẵn để kết án truy tố vĩnh viễn những tội ác tầy trời bất khả bôi xóa của đảng cộng sản vn và bè lũ tay sai.
48. Cái tập đoàn đcsvn và tay sai này đã tự
nguyện làm thân khuyển mã, đã và đang biến đất nước Việt Nam dần trở thành phụ
thuộc, như một quận huyện chư hầu bán chính thức của Tầu Hán Trung cộng. Một điều
mà đời đời những thế lực đế quốc xâm lăng Hán tộc từ phương Bắc, là những tổ
tiên hiếu chiến của Mao Trạch Đông, chưa
bao giờ, và sẽ không bao giờ có thể thực hiện. Nhưng, những kẻ hậu duệ kế thừa
hắn vẫn chưa một lần, và cũng không thể một lần muốn tự thức tỉnh, phá vỡ giấc mộng
vô minh ngàn đời, đói khát quyền lực thống trị, viễn chinh xâm lăng là: dùng mọi
cách, làm sao có thể thôn tính và nuốt trọn Việt Nam.
Từ ngày Hồ Chí Minh còn
lang thang học cách đu giây quốc tế cộng sản Nga Tầu, đặc biệt là từ khi đã tự
nguyện làm thân khuyển mã cho Nga-xô và Mao Trạch Đông để leo lên chức „chủ tịch
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa“, cho đến ngày y „chính thức“ cầu viện Mao và đcs
Tầu hậu thuẫn mọi phương tiện chiến tranh từ Tầu cộng, Nga-xô và khối cs để xâm
lăng VNCH, thì cũng là lúc Hồ mở cửa, rước vào miền Bắc Việt Nam một tập đoàn
quân gián điệp Tầu cộng trá hình hùng hậu, dưới hình thức „cố vấn, chuyên gia nước
bạn Trung Quốc“. Đến ngày hôm nay, sau mấy chục năm bám rễ, đội quân gián điệp hùng hậu này đã len
lỏi có mặt trong tất cả các vị trí then chốt trong bộ máy ngụy quyền của Hồ và
đảng csvn. Chế độ ngụy quyền của đcsvn ngày hôm nay đã hoàn toàn lệ thuộc đảng
cs Trung cộng như một thứ thái thú chư hầu, đến nỗi, mỗi lần chúng phải quyết định
những chuyện gì quan trọng thì lũ đầu đảng đều phải „đi sứ“ sang chầu tận Bắc
Kinh để thỉnh lệnh của các đồng chí „Tầu Thiên tử“.
49. Cũng chính đảng cộng sản đã bóc lột đất
nước và nhân dân Việt Nam một cách tàn nhẫn thậm tệ. Đại đa số quần chúng nhân
đân Việt Nam đã bị đảng cs cưỡng bức trấn lột mất hết tự do, tài sản quyền lợi,
nhưng thay vào đó họ bị đcs che đậy ru
ngủ bằng một rừng những danh từ xảo trá như „nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ“
v.v. Tất cả đại đa số khối quần chúng đã bị biến thành giai cấp vô sản thực sự,
bị đẩy xuống đáy tầng của sự ngèo nàn bất công và lạc hậu. Việt Nam hôm nay đã
tụt hậu một cách thê thảm xuống hàng cuối cùng của của tất cả những gì là giá trị có thể nêu danh. Tất cả những
gì là quyền tự do căn bản của nhân dân đều đã bị đảng cs cướp sạch hoặc trà đạp
một cách thô bạo trắng trợn. Tất cả hệ thống „Hiến pháp“, „hành pháp“ cùng vô số
các „luật định“ của bộ máy nhà nước ngụy quyền cs đã bị đục khoét rỗng, nhào nặn
bóp méo từ trong ra ngoài, đã được tô vẽ bôi hồng chỉ để thực thi có một mục
đích duy nhất là che đậy, ngụy biện để hòng hợp pháp hóa duy trì áp đặt quyền lực
độc tôn thống trị „bất di bất dịch“ của đảng csvn đối với đất nước và dân tộc
Việt Nam. Cái gọi là „quốc hội“ của bộ máy nhà nước bù nhìn cộng sản chỉ là những
cái biển hiệu dùng để lòe bịp thế giới bên ngoài. Còn đối với nhân dân Việt
Nam, nó là một liều thuốc cực kỳ độc hại,
hơn thế nữa, trên thực tế, còn là
những cái bẫy xập chết người.
50. Các đảng viên đảng cộng sản phải học
thuộc lòng những „tư tưởng và hành động“
xảo trá của Hồ Chí Minh, phải chấp nhận nhiều sự thử thách mới được ra nhập vào
đảng csvn, một lần ra nhập là phải chấp hành tuân thủ đến trọn đời. Một trong
những vô số những cái „nhẹ như không“ mà các đảng viên cs đều phải thuộc làu là
„không gia đình, không tổ quốc, không tôn giáo, và không dân tộc“. Các đảng
viên cs phải tuân thủ tuyệt đối, không được từ nan chối bỏ bất kỳ nhiệm vụ gì
mà đảng cs ra lệnh, nếu đảng cần, thì dù có phải bỏ lại hoặc bán rẻ tất cả: Gia
đình, tổ quốc, tôn giáo và dân tộc. Vì đối với đcs, chỉ có một thứ có thể vượt
lên trên hết thảy, đó là quyền lợi và sự sống còn của đảng csvn. Cho nên một
trong những khẩu hiệu quen thuộc của Hồ Chí Minh, qua ngòi bút của Tố Hữu ( tức
Tôn Thất Lành), một tên đầu xỏ rành nghề với các thủ đoạn cắt lưỡi tập đoàn trí
nô của đcs, đã viết thành „thơ“ cho tất cả các đảng viên cs đều có thể học thuộc
lòng như sau:
„Giết
! giết nữa bàn tay không phút nghỉ!
Cho
ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
Cùng
rập bước chung lòng, thờ Stalin bất diệt“.
Ngoài ra, các đảng viên đảng cs cũng còn phải „nhập tâm“ những xảo ngữ xú danh của những tay tổ gian hùng của quốc tế cộng sản, trong đó có Lê nin như: „Không có thể phản bội, không thể làm người cộng sản“, nói cách khác: “không là kẻ phản bội, không phải là người cộng sản“.
51. Ngay từ ngày thành lập, „Tổ Quốc“ của
đảng cộng sản vn và những kẻ tay sai trung thành kế thừa sự nghiệp của Hồ Chí
Minh đã không phải là đất nước Việt Nam mà là thế giới đại đồng của quốc tế cộng
sản, đại diện bởi „Nước Nga - Liên bang chxhcn xô viết“ (UdSSR), và nước Tầu đại
Hán („Trung quốc“ - China). (UdSSR: một bóng ma đỏ vừa mới bị tan rã cách đây
không lâu, nhưng chưa từng biến mất). „Gia đình“ của các đảng viên cs là tập thể
đảng cộng sản “các nước cs xhcn anh em“. „Tôn giáo“ của chúng là mớ vọng tưởng tà
ám về một lý tưởng cộng sản không tưởng. Điều đáng nói là Hồ và đảng cộng sản của
y ngay từ đầu đã thừa biết rằng: lá cờ đảng cộng sản cùng tất cả những gì là
„lý tưởng cộng sản“ chỉ là mảnh cờ hiệu trá hình, một thứ phương tiện che giấu
mục đích không hơn không kém. Mặc dù biết rõ
ngay từ đầu như vậy, nhưng, Hồ và đảng cs vẩn phải tiếp tục giương cao mãi
lá cờ đỏ sao vàng và búa liềm đó ở tất cả mọi nơi chỗ có thể được, hòng có thể
mãi tiếp tục lòe bịp khối đại quần chúng nhân dân, mà phần động số họ, theo sự
ước lượng của bộ chính trị đảng csvn là chẳng còn một ai lại có thể lọt lưới sau
những màn tầy não toàn diện toàn phần, dưới hình thức tập thể sâu rộng trong
toàn dân do đảng cộng sản đã không ngừng thực thi từ mấy chục năm qua.
52. Sau khi khối cộng sản đông Âu, đại diện
bởi Liên bang xô viết xụp đổ, đảng cộng sản Việt Nam như con rắn mất đầu. Để bằng
mọi giá giữ vững cho được quyền lực thống trị, những kẻ kế thừa Hồ và tay sai
đã phải gồng gánh sinh mệnh thoi thóp của đảng csvn giao hẳn cho đảng cs „Trung
quốc“ định đoạt gánh vác, từ nay sốt xắng tình nguyện chỉ để xin làm một chân
gác cửa cho „mẫu quốc thiên triều“.
53. Nhưng, kẻ định đoạt đường hướng tinh
thần Việt gian cho đcsvn cùng những kẻ kế thừa nó tại Việt Nam, theo đó phải phục
tùng vô điều kiện, trước sau như một vẫn là tên muôn năm chủ tịch đảng – „cha
già“ xảo quyệt Hồ Chí Minh, một tên thợ đu dây rành nghề giữa Moskau và Bắc
Kinh. Sau khi một đầu dây đã đứt, đặc biệt là sau cái chết của „lão cha ghẻ nói
tiếng Nga“ thì đảng cộng sản Việt Nam chỉ còn lại một đầu dây là „cái váy của người
mẹ người Tầu“, lại cũng ghẻ nốt, để bám víu sống còn. Tất nhiên, bất kỳ sự o bế
mời chào của các nhà „chính khách thực tiễn“ đến từ các nước phương Tây khác, kể
cả „kẻ thù không đội trời chung“ là Mỹ, cũng đều làm cho đám hậu sinh đảng csvn
tò mò hớn hở. Miễn làm sao quyền lực thống trị của đảng csvn vẫn còn được tại vị,
và dường như đáng hí hửng hơn hết là chứng giả thông manh lọc lõi của họ, sẵn
sàng nhẹ tay buông thả cho những thói lưu manh ngu học của chúng.
Để theo gương
nước Nga "Liên bang xô viết“, qua sự truyền đạt "kinh nghiệm" có tầm nhìn xa xứng
mặt gian hùng của các cố vấn đảng cộng sản Nga-xô, thì đảng csvn cùng bộ máy ngụy quyền bù nhìn của nó cũng phải nhất thiết tìm tất cả mọi phương cách để „chìm
xuống“, trước khi nó bị lật chìm. “Hạ cánh an toàn“, hoặc „xuống ngựa an toàn“
là những cụm từ thường được tập đoàn trí nô cộng sản trá hình thậm thụt úp mở, tự
đắc ám chỉ những thủ đoạn lưu manh hạ đẳng đã tân trang lại của đảng csvn.
Beeindruckend und verhängnisvoll
ist das Händeschütteln zwischen den
beiden KP Genossen Nguyen Minh Triet und
Thich Nhat Hanh im Jahr 2005 in Hanoi, nach dem
Inhalte des Geschäftes mit dem
„Opium des Volkes“ neu definiert und unter Dach und Fach waren.
*
Đầy ấn tượng và thật dính chết
như keo sơn là cái bắt tay nặng nề đen tối ràng buộc bởi nghiệp chướng sâu dầy tội
ác giữa hai đồng chí đảng viên cs Nguyễn Minh Triết và Thích Nhất Hạnh vào năm
2005 tại Hà Nội, sau khi phần nội dung kế
hoạch liên minh ma quỷ sặc mùi „thuốc phiện của nhân dân“ đã được giàn xếp ngã
ngũ.
54. Cùng một mục tiêu trên, đảng csvn, GHPGVNTN,
Thích Nhất Hạnh và các đồng chí cs trá hình Phật giáo đang thi thố mọi thủ đoạn
để thực thi cho bằng được nhiệm vụ chiến lược sống còn này. Và Thích Nhất Hạnh chưa
một lần dừng lại trên hành trình tích chứa sâu dầy nghiệp nhân tội ác. Với sự trai
lỳ khả ố rành nghề, y vẫn tiếp tục khai thác tối đa những nhãn hiệu xảo trá như
„hòa bình, phản chiến“ mà đảng cs đang và đã từng tô vẽ cho đồng chí Thích Nhất
Hạnh trong „phong trào phản chiến“ đầy tội ác năm nào. Sự tuyên truyền cò mồi
trâng tráo của đảng csvn trong nước và hải ngoại, đã tạo nhiều cơ hội để những cơ
sở trá hình Phật giáo của Thích Nhất Hạnh tại nước ngoài có thể giăng bẫy một
cách tinh vi, lừa vào tròng vô số các Phật tử phương Tây nhẹ dạ.
„Lực lượng“ ngoại
vi mê muội này sẽ trực thuộc „đội quân thứ ba“, được Thích Nhất Hạnh trù bị trước
để cứu đảng csvn khi „tình thế nguy kịch“: Trong trường hợp quyền lực của đảng
cs bị đe dọa rung chuyển tận gốc rễ. Khi
đó, các tên cán bộ cộng sản trá hình Phật giáo núp áo nhà sư có thể tung hoành
tạo biến loạn, vừa ăn cướp la làng, vừa dùng chiêu bài „tôn giáo“ để lật ngược
tình thế có lợi cho đảng csvn ngay trong lòng thế giới phương Tây. Những „Phật
tử“ phương Tây mê muội này, theo tính toán của Thích Nhất Hạnh, khi có biến cố,
họ sẽ sẵn sàng (?) một lần nữa xuống đường biểu tình „bảo vệ Phật Pháp“ thay cho
đảng csvn… được nhờ, vì đảng cộng sản vn chỉ chờ có thế. Tức là bất kỳ sự phản
kháng nào từ phía chính quyền các nước phương Tây sở tại, ra tay đối phó với
các „lực lượng biểu tình Phật tử“ của Thích Nhất Hạnh, sẽ là cơ hội khốn nạn nhất
để các cơ quan tuyên truyền của đảng csvn đồng loạt lợi dụng khai thác tối đa và
„chỉ trích, lên án“ là „kỳ thị Phật giáo“.
Nhưng các „tăng sỹ“ trẻ gốc Á châu này dù trá hình với dáng vẻ cẩu thả một cách nham nhở hoặc ngây ngô cách nào thì trớ trêu thay lại càng lộ rõ hơn gấp ba gấp bẩy lần tâm địa tham sân si bất khả che giấu của chúng. Phần đông những „tăng sỹ“ trẻ này sau khi mới ra trường từ những „giảng đường Phật học“ của đảng csvn, nói cách khác là „ đại học an ninh, chuyên khoa tôn giáo“, đã được đảng cs và Thích Nhất Hạnh khai sinh vào đời bằng một rừng những xảo ngữ gượng ép như „tăng thân“, “làm mới đạo Bụt“.v.v. vừa mới ra khuôn, chưa phai mầu cờ đỏ, còn sắc cạnh như búa liềm, còn hơi hám khói thuốc phiện và nặng mùi „tôn giáo kiểu cộng sản xã hội chủ nghĩa“.
Các khái niệm, danh từ „Phật Giáo“ khiên cưỡng „hiện đại“ dòng „Tiếp hiện“ này đã tự nó tố cáo tội ác và tâm địa xảo quyệt của Thích Nhất Hạnh đã dùng tất cả mọi phương cách để khai thác pha chế, xào nấu các danh từ và Giáo Lý Phật Pháp theo công thức: „cộng sản + tôn giáo + thuốc phiện“. Vì mục đích những thực đơn đặt hàng của bộ chính trị đcsvn, trong „công cuộc làm mới Đạo Bụt“ nhiều bước nhiều chặng, kéo dài nhiều thập niên của đảng đánh độc thế hệ trẻ, chưa bao giờ là để dành cho đảng cs tự tiêu hóa những sản phẩm tôn giáo sống xượng do chính các đồng chí cs của họ chế biến ra. Vì „tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân“ nên thực đơn đó chỉ để đầu độc nhân dân, để nhân dân tự đầu độc, hoặc làm sao có thể ăn được nhiều, có thể say mà không chết ngay. Còn như trên đã dẫn, đảng cộng sản vn chưa từng thiếu thốn thức ăn tinh thần dành riêng cho các đồng chí đảng viên của họ. (Chuyên sâu về vấn đề này, phần chi tiết vạch mặt những xuyên tạc Giáo Lý Phật Pháp một cách tinh vi có hệ thống của đảng csvn, GHPGVN, GHPGVNTN, Thích Nhất Hạnh và đồng bọn, xin xem phần 2. , Nguyên bản tiếng Đức, sau bài viết này).
Quay trở lại với vụ „Tu viện Bát-Nhã“ tại Việt Nam vào năm 2005. Cùng với lực lượng an ninh tôn giáo nhà nước ngụy quyền csvn, Thích Nhất Hạnh và đồng bọn đã phải gấp rút giàn dựng một vở kịch khả ố vụng về bất cần khán giả. Miễn sao để Thích Nhất Hạnh cùng với đám trí ngủ hậu sinh nhẹ dạ người ngoại quốc đã bị xỏ mũi, có thể xênh xang cùng đảng csvn trình diễn một vở kịch xảo trá: „Tự do tôn giáo ở Việt Nam“, tạo trợ lực đáng kể cho đảng cs vào giờ chót, có thể vượt rào cấm vận ra nhập WTO.
Sau màn „đụng độ tranh chấp dân sự“ đầy kịch tính được giới trí nô của đảng cs trong nước và hải ngoại làm rùm beng đánh lạc hướng, là màn „khổ nhục kế“ tiếp theo, Thích Nhất Hạnh đã nhập ngay một vai mới là „nạn nhân“, còn gọi là „dân oan“ của đảng. Theo kịch bản, thì số theo Thích Nhất Hạnh về Việt Nam khoảng 100 tên kể cả ngoại quốc để „tạo ấn tượng, trình diễn thời trang và đội hình“ bằng áo nâu nón lá trên đường phố Hà Nội, sau màn „va chạm“ ban đầu đã tạm hoàn thành nhiệm vụ và bị „trục xuất“ về lại châu Âu. Nhưng tập đoàn của Thích Nhất Hạnh được đảng cs bổ xung thay thế ngay bằng gần 400 tên cs trá hình Phật giáo khác nhập cuộc. Để cho đúng kịch bản, chúng cùng đảng cs diễn nốt vở kịch. Hết „màn trời chiếu đất“, đến bị „xã hội đen bêu riếu nhục hạ thảm thương“, rồi sau chót là màn kết quan trọng nhất: Số cán bộ an ninh tôn giáo trá hình này được đảng cs đem cài cắm tại nước ngoài bằng hình thức quen thuộc là bị „trục xuất“ khỏi Việt Nam để xin tỵ nạn…đểu tại nước ngoài. Rất đông trong số này đến Đức trong tư thế trá hình Phật giáo giả tỵ nạn, tại một trong những cơ sở lớn nhất của Thích Nhất Hạnh tại Đức, đó là Waldbröl, một thành phố nhỏ gần Köln, miền Trung Tây-Đức. Trước đó cơ sở này từng là một học viện quân sự cũ không còn sử dụng (của quân đội Phòng vệ - Liên bang Đức), được đảng csvn và Thích Nhất Hạnh qua tay lũ cs nằm vùng đứng tên mua lại, rồi cải trang thành „ Công ty trách nhiệm hữu hạn – Viện Phật giáo ứng dụng châu Âu“ („EIAB“- GmbH“). Số còn lại cũng lần lượt được đảng cs và Thích Nhất Hạnh cho đi „tỵ nạn“ tại các nước phương Tây khác.
Để xuất phát từ đây (những cơ sở của Thích Nhất Hạnh, GHPGVN, GHPGVNTN cùng các tổ chức ngoại vi tay sai), các cán bộ cs trá hình Phật giáo của Thích Nhất Hạnh đã và đang móc nối hoạt động tay trong tay khăng khít với „đảng Việt Tân“, một tổ chức đã bị lật mặt là một công cụ cò mồi trá hình của công an ngụy quyền Việt gian cộng sản. Đang nói trong phạm vi ở đây là, về các thủ đoạn chiến thuật, chúng tìm mọi cách tập hợp, đoàn ngũ hóa, lừa lái khống chế những người Việt Nam đặc biệt là Tây phương còn mê muội, để chuẩn bị một thứ „lực lượng trù bị“ cho những cuộc xuống đường tuần hành, dùng chiêu bài "tôn giáo", biểu tình với quy mô lớn ngay tại phương Tây, có lợi cho đảng csvn sau này.
Nichts ist zutreffender als die
beiden Fotokommentare aus einer vietn. Web-Site:
1.
Linkes Bild: „KP Kadermönch Thich Phap An: 3. von links, (Geschäftsführer des EIAB
GmbH in Waldbröl, DE) gemeinsam mit Thich Nhat Hanh und Genossen beim vietn. KP
Vorsitzenden Nguyen Minh Triet zu Besuch“.
Hình
bên trái: Tên cán bộ Việt gian cộng sản trá
hình Phật giáo Thích Pháp Ấn,( thứ 3 từ trái sang) chủ tịch cái gọi là „Công ty
trách nhiệm hữu hạn – Trung tâm Phật giáo ứng dụng Châu Âu“tại Waldbröl – CHLB
Đức, cùng Thích Nhất Hạnh và đồng bọn gặp gỡ tên đầu lãnh Đảng cộng sản vn Nguyễn
Minh Triết.“
Khó
có lời bình luận ảnh nào chính xác hơn lời bình luận trên một trang website tiếng
Việt khi chú thích bức ảnh bên phải trên đây:
2.
Rechtes Bild: „Thich Nhat Hanh und Frau Genossin Florette Cao Ngoc Phuong bei dem
General der KP- Volksbefreiungsarmee Vo Nguyen Giap und Frau zu Besuch. Zwei große Führer der zwei
Kampffronten von der gleichen vietn. KP treffen sich wieder. Der eine tötet mit
dem Gewehr, der andere mit dem „Opium des Volkes“. Das Ergebnis lässt sich
sehen: Der eine zählt die Leichen der andere das Geld.“.
Hình bên phải: „Thích Nhất Hạnh cùng người tình đồng
chí Cao Ngọc Phượng thăm vợ chồng tên đại
Việt gian Võ Nguyên Giáp. Những tên đại gian hùng của „hai mặt trận“, hai mũi
giáp công“ đều cùng của gian đảng Việt-gian cộng-sản. Một tên bắn giết bắng
súng đạn, một tên giết người bằng „thuốc phiện của nhân dân“. Kết quả thật đã
quá rõ ràng để chúng không còn có thể chối tội ác: Một tên đếm xác chết, một
tên đếm tiền, đang chất chứa thêm cao đầy tài khoản tội ác của đảng csvn.
Não trạng của Thích
Nhất Hạnh cũng như tất cả các loại Thích trá hình của đảng cộng sản vn như Thích
Trí Quang, Thích Đôn Hậu, Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ đều có chung một cơn mê tưởng: Một lần khoác bộ
gấm bào „Quốc Sư“ („Thầy của các vị Thầy“), dù chỉ là vài giờ diện thử trong một
màn kịch hóa trang. Vì sau đó, vẫn trong năm 2005 màn tổng diễn tập cho vở kịch
„Biến cố Tu viện Bát Nhã“ do Thích Nhất Hạnh và an ninh nhà nước ngụy quyền Việt
gian cs cùng chung giàn dựng đã đến gần. Vây quanh bởi một đoàn những tên an
ninh vgcs trá hình trong lớp cà sa tăng sỹ Phật giáo theo hộ tống, Thích Nhất Hạnh
& đồng bọn xênh xang rước đám diễu hành trên đường phố Hà Nội, và không hề bỏ
lỡ một lịch hẹn chụp hình nào của các phó nháy chuyên nghiệp an ninh vgcs. Vì đặc
biệt là trong năm 2005 này, đúng là lúc đảng csvn đang cần cần phải lôi cái bảng
hiệu trá hình „Tự do tôn giáo tại Việt Nam“ ra tô vẽ lại đánh bóng „sạch đẹp“
hơn bao giờ hết, mong nhờ tấm bảng hiệu này đối phó với sự cấm vận của Mỹ và phương
Tây, hòng qua đó có thể lòe bịp thế giới tự do, ra nhập WTO. Trong vụ „Tu viện
Bát Nhã“, Thích Nhất Hạnh và đồng bọn thủ vai „nạn nhân“ của đảng cs vn, khoảng
400 tên cs trá hình Phật giáo được an ninh vgcs „sách nhiễu“ và „trục xuất“ khỏi
Việt Nam. Tại nước ngoài, Thích Nhất Hạnh và đcsvn lừa lái, móc nối “xin tỵ nạn“
cho chúng dưới danh nghĩa „tín đồ Phật giáo bị đàn áp“. Để thực thi kế sách, cả
bộ máy tuyên truyền văn bút trí nô của đảng csvn trong và ngoài nước đồng loạt
lên tiếng, thực hiện đúng chức năng tay sai cò mồi quảng bá cho màn kịch
này. Để cùng một lúc khoảng 400 tên cán
cs trá hình Phật giáo được đảng cs và Thích Nhất Hạnh „hợp thức hóa“ tư cách giả
„tỵ nạn“ của chúng tại nước ngoài. „Công ty trách nhiệm hữu hạn – Viện Phật
giáo ứng dụng châu Âu“– („EIAB-GmbH“) trá hình của Thích Nhất Hạnh tại Waldbröl
– miền Trung Tây-Đức, là một trong những địa điểm dừng chân ẩn náu đầu tiên của
chúng.
Thich
Nhu Dien, oberster Vertreter der UBCV bzw. CVBK/ KVVBK in Deutschland, „Vien
Giac Pagode Hannover“.
Thích
Như Điển, tên đại diện của GHPGVNTN tại „Chùa Viên Giác" – Hannover, CHLB Đức.
55. Như tất cả những chi nhánh khác tại nước
ngoài, thì „Chùa Viên Giác“ tại Hannover nằm về phía Tây-Bắc CHLB Đức cũng là một
trong cơ sở quan trọng của GHPGVNTN. „Chùa“ này được đại diện bởi tên Thích Như
Điển. Như trên đã dẫn, hệ thống „chùa tự“ đang càng ngày được mở rộng và có mặt
khắp nước Đức, về hình thức ngụy trang đa phần đều trực thuộc GHPGVNTN, nằm
trong sự điều khiển của tên Thích Quảng Độ, nhưng về thực chất, đang là những
cơ sở trá hình của GHPGVN tại nước ngoài, dành cho các cán bộ cộng sản giả danh
đội lốt tôn giáo từ trong nước, từng bước sang thay thế và chiếm giữ.
Về hình
thức hay bản chất, cái gọi là „GHPGVN“ („giáo
hội quốc doanh“) và „GHPGVNTN“ cả hai đều nằm dưới sự khiển dụng trực tiếp của
đảng csvn, cho nên, nó là hai cái thòng lọng được thắt bởi một sợi giây duy nhất.
Một cái thòng lọng thì đã được cái gọi là „Ban tôn giáo chính phủ“ của đcsvn tròng
lên cổ các tín đồ Phật giáo Việt Nam trong nước một cách oan nghiệt. Cái còn lại
thì đảng csvn đã tìm đủ cách mà không cách nào với tới được khối người Việt Nam
tỵ nạn chế độ ngụy quyền Việt gian CS tại hải ngoại cho được. Cho nên, chỗ nào
có đám cán bộ cộng sản trá hình Phật giáo này xuất hiện là ở đó lại có những
màn dây rợ lòng thòng thê thảm. Thường thi thố giọng lưỡi của thập loại Ma tâm,
cũng như có thể đồng loạt giả mắc chứng á khẩu trơ trẽn, bỉ ổi, là những đặc điểm
chung của lũ cs trá hình Phật giáo này khi được hỏi đến, chúng đang tìm ai với một
mớ thòng lọng trên vai như thế.
Các cơ sở trá hình „chùa tự“ này, trong đó các cơ sở của Thích Nhất Hạnh đã và đang được gấp rút tạo dựng cải trang một cách tương xứng, để có thể dần biến thành những nơi chứa chấp ẩn náu trù bị của một số đông các cán bộ cộng sản trá hình Phật giáo dành cho một tình huống „đặc biệt nghiêm trọng“, đó là ngày tàn xụp đổ của đảng Việt-gian cộng sản tại Việt Nam. Như trên đã dẫn, ngay trong hiện tại, xét về mặt chiến lược, đảng csvn đang tìm mọi phương cách bôi xóa chối bỏ bản mặt thật tội ác, để làm sao có thể dần dần „biến thoái“ và „chìm lặn xuống“. Chúng đang giàn dựng một cách xảo trá, hòng đánh tráo thay thế vào „chỗ bỏ trống“, là một hệ thống „dân chủ, đa nguyên đa đảng“ bù nhìn và trá hình càng ngày càng tinh vi hơn. Trong „tình hình xấu“ các tên cộng sản trá hình Phật giáo núp áo tu hành sẽ ẩn náu tại các cơ sở trá hình tôn giáo này để chờ thời. Khi một thể chế „dân chủ đa đảng“ mới được thiết lập, chúng sẽ từ đó lợi dụng tối đa các định chế hiến pháp „dân chủ“, dùng chiêu bài „tôn giáo, Pháp nạn“ để đánh lạc hướng và xách động quần chúng, tạo các cuộc biến loạn, lật ngược tình thế cướp lại chính quyền. Dành cho mục đích này, đảng csvn đã và đang đầu tư một cách ồ ạt, huy động một lượng ngân khoản rất lớn, trong nước cũng như hải ngoại cho các công trình kiến thiết „tôn giáo, Phật giáo“. Trước hết để gây ảnh hưởng thanh thế quyền lực, thu lợi trước mắt và cũng để rửa tiền bằng những tạo dựng đầu tư (kiểu… dã tràng) dưới dạng những công trình bất động sản.
Ở đây (tại CHLB Đức nói riêng) phải kể đến tất cả các cơ sở của Thích Nhất Hạnh tại nước ngoài (ở Đức là „EIAB - GmbH“ tại Waldbröl), cùng tất cả các „chùa tự“ trá hình trực thuộc GHPGVN do các tên cộng sản trá hình từ trong nước mới sang, manh nha tạo dựng như „trung tâm văn hóa Phật giáo Franken, Nürnberg“ tức „chùa Vĩnh Nghiêm“, của tên cs Thích Trí Dũng (trực thuộc „Tổ đình chùa Vĩnh Nghiêm“ – Sài gòn) và „chùa Phổ Đà“, tại Đông-Berlin v.v… Kế đến là toàn bộ hệ thống „chùa tự“ trực thuộc GHPGVNTN cùng hệ thống tay sai là các miền „Gia đình Phật tử Việt Nam“, các „khuôn hội“, các „lực lượng“, các „ban hộ niệm“ kèm theo, do tên Thích Như Điển, Thích Quảng Độ, Võ Văn Ái làm „đầu lãnh tinh thần“ như: „Chùa Viên Giác“ tại Hannover, „Linh Thứu“ – Tây Berlin, „Phật Huệ“, „Phật Đạo“ tại Frankfurt, „Tâm Giác“, „Phổ Bảo“ tại München và vô số các chùa tự khác như „Viên Đức“ tại Ravensburg .v.v. . Sau hết là vô số những „hội chân rết“ theo công thức „đoàn ngũ hóa“ để khống chế lợi dụng, như „hội chuyên gia“,“hội sinh viên“ „đồng hương“, „thân hữu“, „những người bạn“, „doanh nghiệp“,“văn nghệ“, „lớp khiêu vũ“ và … cả „lớp tiếng Việt“ v.v.
56. Hiện nay cả hai tên Thích Nhất Hạnh và
Thích Như Điển đều hoạt động tay trong tay với „Việt Tân“, một
công cụ trá hình của công an Việt gian cộng sản. Các thành phần đầu xỏ và lũ
tay sai nòng cốt của đảng này là những tên an ninh chuyên nghiệp, điệp báo nằm
vùng lâu năm của đảng Việt gian cs. Cái gọi là „đảng chính trị đối lập“ („ViệtTân“) cò mồi này chính thức khai trương ra mắt ngày 19.09. 2004 tại Berlin, thường
được an ninh nhà nước ngụy quyền việt gian cs ngụy trang tạo dựng thanh thế bằng
những thủ đoạn khổ nhục kế rẻ tiền, là: dùng chính các báo „công an nhân dân“ của
đảng csvn trong nước và giới văn bút trí nô của chúng tại hải ngoại „chỉ trích“
hoặc khoác cho những mặt nạ trá hình hai mặt như „chống cộng, phản động“, hoặc
„dân chủ, canh tân“ v.v. Chúng thường rêu rao những bảng hiệu trá hình, là đứng
về phía người Việt Nam tỵ nạn chế độ Việt gian cs, nhưng về thực chất chỉ để giăng bẫy đánh lừa và tìm cách khống chế khối
đồng bào Việt nam Quốc Gia tại hải ngoại.
Nước Đức thực sự là „miền đất hứa“ và là một trong những „sân sau yên tĩnh“ cho những mưu ma chước quỷ của đảng csvn. Vì tại đây, bên cạnh những lý do khác, là do có một phần khá đông số người Việt Nam sinh sống tại phía Đông của nước Đức. Họ từng là những người được nhà nước ngụy quyền Việt gian cs „ban phát ân huệ“ bằng cách đẩy đi „lao động hợp tác“, để bán sức lao động, thu lợi cho đảng csvn tại „Cộng hòa Dân chủ Đức“, tức Đông-Đức cũ („GDR“ hoặc „DDR“). Họ chịu nhiều ảnh hưởng và sự khống chế trực tiếp của „đại sứ quán“ Việt gian CS tại Đông Đức, do vậy, cũng theo sự tính toán chắc mẩm của đảng csvn, là sẽ còn có thể lợi dụng tối đa phần đông khối người này. Vì trong số những „con người máy xhcn“ đã bị tẩy não toàn phần này, vẫn có thể sẽ còn xót lại đâu đó những „đoạn rễ cộng sản“ đứt thối, chưa bị cơ thể đào thải.
57. Đảng cộng sản Việt Nam cũng như Thích
Nhất Hạnh và tập đoàn GHPGVNTN vẫn đang
tìm mọi cách làm biến tướng một cách có hệ thống các nền tảng giáo lý Phật
giáo, vẫn tiếp tục chối bỏ tội ác, không ngừng xuyên tạc bôi xóa một cách đê tiện
các chứng tích, dữ kiện liên quan đến các giai đoạn lịch sử cận đại và đương đại
Việt Nam, trong đó có cuộc „chiến tranh Việt Nam“. Đặc biệt là các chi tiết
liên quan tới tôn giáo, Đạo Phật nói chung và GHPGVN, GHPGVNTN nói riêng, được
đảng cộng sản Việt Nam khiển dụng làm công cụ gây tội ác, cũng là bình phong che
đậy tội ác, củng cố quyền lực, đều bị đảng cs vn bôi xóa, đổi trắng thay đen, làm
thất thoát, cắt xén và xuyên tạc, bất chấp
mọi di chứng nguy hại và hậu quả lịch sử cho dân tộc Việt Nam trong đương đại
và tương lai.
58. Vì khuôn khổ bài viết nguyên ngữ tiếng
Đức, dành cho khối đọc giả phương Tây, nói tiếng Đức, nên trước hết chỉ đơn cử ở
đây những ví dụ nhỏ sơ lược liên quan tới tên Thích Như Điển và GHPGVNTN tại Đức.
Với một hậu thuẫn đông đảo các giới văn bút trí nô tay sai của đảng cs vn tại Đức,
một trong số đó có những tên đã có học vị tiến sỹ, giáo sư, ví dụ như Thái Kim
Lan (môn Triết học, trường đại học tổng hợp Ludwig Maximilian Universität „LMU – München“), đã là những nền tảng thuận
lợi để Thích Như Điển cùng các „đệ tử“ của y „chế tác“ các „luận án tiến sỹ“. Trong
đó, phần „sao y bản chính“ đã trở thành một thông lệ, cũng là cơ hội mà các vị
„cử nhân“ tương lai của GHPGVNTN không thể bỏ qua. Đặc biệt là những chi tiết quan
trọng về giai đoạn lịch sử cận đại đầy tội ác của GHPGVNTN, cùng sự liên kết
„như hai mà một“ của nó với đảng cộng sản vn, đã „được“ các „tiến sỹ“ này chép
y chang như những „chủ trương đường lối“ của…đảng csvn „chỉ đạo“ GHPGVNTN từ mấy
chục năm qua.
59. Một trong rất nhiều trường hợp được thống
kê tường tận, sẽ đơn cử ở đây một trường hợp cụ thể: Tên Thích Hạnh Giới (tục
danh Lộc Hồ, sinh ngày 01.01.1971 tại Sài gòn, đệ tử của tên Thích Như Điển) kết
thúc chương trình đại học trường Đại học Hannover năm 2003, tại chuyên khoa
„Khoa học -xã hội và -tâm linh“, ở bộ môn „Phật học – Triết học“, làm „Luận án
tiến sỹ - triết học“ với đề tài:
Tạm dịch: “Đạo Phật Việt Nam tại USA – Một nền
tảng của đức tin trên quê hương mới“. (USA: „Hiệp chủng quốc“ hoặc „Liên bang
quốc gia Mỹ).
Trong „luận án“ này: nguyên bản tiếng
Đức:
(„Der vietnamesischeBuddhismus in den USA - Der Stellenwert des Glaubens in derneuen Heimat“),
người đọc sẽ thường gặp lại giọng lưỡi
xảo trá quen thuộc của những tên cs trá hình Phật giáo GHPGVNTN, y chang các giọng
điệu tuyên truyền bôi xóa lịch sử một
cách trơ tráo của đảng cs vn đã từng lặp lại từ hàng chục năm nay. Nào là „
Pháp nạn“, nào là „đàn áp tôn giáo bởi chính quyền Ngô Đình Diệm“ v.v.
60. Một ví dụ khác: „Nhà sử học“ hoặc
„giáo sư Nguyễn Lang“ (!) là một trong
những cái mặt nạ tùy thời của tên Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo Thích
Nhất Hạnh (tức Nguyễn Xuân Bảo). Dù cải trang dưới cái mặt nạ „Nguyễn Lang“ hay
trá hình trong lớp áo cà sa Phật giáo, y tha hồ „chế tác“ các „tác phẩm văn học“
và „lịch sử Phật giáo Việt Nam“, bằng cách cho tất cả vào khuôn đúc của các nghị
quyết đảng csvn để đúc chế lại, cái nào khó nấu chẩy thì mài dũa, đập vỡ hoặc bẻ
cong.
„Làm mới Đạo Bụt“, hoặc „dòng tu tiếp hiện“ chỉ là một trong vô số những
„xảo thuật tái chế“ đó, tạo cho đảng cộng sản vn có thêm nhiều cơ hội của những vi
khuẩn tâm linh bệnh hoạn, đeo đẳng ăn bám Phật giáo, mãi sống còn để đầy đọa
rút máu tàn phá cơ thể dân tộc Việt Nam. Vì sức ỳ nội tại đã quá tải, đảng csvn
không thể chấp nhận Phật giáo „đi chệch hướng cộng sản xhcn“. Do vậy Thích Nhất
Hạnh, đảng csvn, GHPGVNTN cùng những kẻ không thể đoạn tuyệt thứ xảo nghiệp
thích trí trá, đã phải thường lăng xăng tranh giành lấy bất cứ cơ hội nào để tuyên xướng, ban phát ân huệ và quảng bá phô
trương những khẩu hiệu „hoành tráng và vĩ đại“ có thể cảm động chết người, như
„Phật giáo đồng hành cùng dân tộc“, „mái chùa che chở hồn dân tộc“, „Phật giáo
là dân tộc“, để lòe bịp nhân dân. Như một thứ bùa chú mê hoặc không thể thiếu của
những kẻ cai ngục thuộc giai cấp thống trị giả nhân giả nghĩa nhưng có quyền ăn
nói.
Hậu quả là qua sự „chế tác“ của đám văn bút trí nô trá hình trong các nhãn
hiệu „giáo sư“, „nhà sử học“, „nhà văn hóa“… kiểu Thích Nhất Hạnh, Thích Quảng
Độ và Võ Văn Ái…, những giai đoạn lịch sử Phật giáo Việt Nam đã bị biến thoái
nghiêm trọng, tùy theo những định hướng giai đoạn của đảng cs vn. Và nguy hại
hơn cả là mục đích của những nỗ lực sửa sai bóp méo lịch sử này chính là: Làm
sao để những vệt máu tội ác không gì lau rửa được của đảng csvn, Thích Nhất Hạnh,
GHPGVNTN và tay sai được che đậy khỏa lấp đi phần nào.
Bức cận ảnh của „Nguyễn Xuân Bảo ở độ tuổi 30, đầu tóc
xanh rờn“ đã tự nó đấu tố cái chi tiết „đi tu từ năm 16 tuổi…“ (mười sáu tuổi) trong
„tiểu sử lý lịch“ của Thích Nhất Hạnh và cũng khai ra luôn ai là tác giả của
„tiểu sử lý lịch“ này. Phần chi tiết xin xem phần 2 sau bài viết này.
61. Cái nhãn hiệu „Thiền sư“ (!) của Thích
Nhất Hạnh cũng như vô số những tên Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo khác,
xét về những thủ đoạn thực thi chẳng khác gì cách làm của Mao Trạch Đông và đảng
cs „Trung quốc“ trong cái gọi là „cách mạng văn hóa“(!) qua bàn tay của đảng cs
vn. Ngay từ những năm 1962, khi Thích Nhất Hạnh thay mặt đảng cs vn, trá hình
trong lớp áo cà sa „tăng sỹ“ Phật giáo GHPGVNTN đi làm nhiệm vụ „ngoại giao tôn
giáo vận“ tại nước ngoài, thì các „đồng chí chuyên trách“ của GHPGVNTN đã chọn ngay
cho y một cái tước hiệu „Thiền sư“ vang như chuông, rất „thời thượng“. Loại bỏ
ngay từ đầu, và „cách mạng văn hóa“ luôn cách chọn danh xưng khả xứng, cẩn trọng
khiêm tốn tối thiểu, ví dụ như „Đại đức“, „chú tiểu“, „Tỳ khưu“, „Sadi“, „Sa
môn“ v.v… có vẻ „quê mùa“ dành cho một người „nương náu cửa Phật“ ở độ tuổi của
hắn tại Việt Nam vào thời điểm đó.
Dùng „danh xưng khả xứng“ chỉ là một phần nhỏ
nhưng bất khả phân, những tinh túy của Giới, Luật trong Giáo Pháp của Đức Phật do
Chư Tổ sư nhiều đời hằng truyền thừa, đã trở thành truyền thống trân quý dành
cho giới tăng ni, tu sỹ Phật giáo, xuất gia hoặc tại gia khắp nơi trên thế giới.
Nhưng đảng cs vn và Thích Nhất Hạnh suy luận cách khác: Nếu „tấm áo cà sa không
làm nên một tăng sỹ, vậy thêm cái danh hiệu chắc phải thừa đủ“. Thật là cay đắng
cho một số đông giới quần chúng ưa chuộng cầu vọng Phật giáo tại phương Tây, đã
từng, và vẫn còn nhẹ dạ cho tới tận hôm nay, vẫn chưa thể hiểu „vì nguyên cớ gì,
cách đây trên 2500 năm, Đức Phật Thế Tôn đã không mang cái danh hiệu „Thiền sư“
kêu như chuông kia, đi „đăng ký bản quyền“ tại một sở phát minh sáng chế nào đó
cho yên chuyện“.
Như đã dẫn ở trên, bằng những thủ đoạn thâm nhập, đánh lạc hướng và lèo lái một cách có hệ thống những nguồn tin của giới truyền thông, học thuật… ngay trong lòng thế giới phương Tây, đảng cs vn qua tay Thích Nhất Hạnh và đồng bọn đã phần nào từng tạo ra một cái nhìn hoàn toàn sai lệch của một phần không nhỏ khối quần chúng tại Phương Tây về cuộc chiến tranh Việt Nam vừa qua.
62. Cũng như cụm từ „Kommunismus“ đã dẫn ở
trên, „Đạo Bụt dấn thân“, sau này được „biến thoái“ thành „đạo Bụt nhập thế“
(!). “Engaged Buddhism“ hoặc „Engagierte Buddhismus, xuất phát bởi cụm từ gốc (ở
tiếng Đức là „Engagement“ : „Trách nhiệm“, „nhiệt tình“ „dấn thân“, „hành động“…vì
một „lý tưởng nào đó“). Cụm từ này đã được giọng lưỡi của Thích Nhất Hạnh và
GHPGVNTN khai thác lợi dụng tối đa, từ đầu những năm 1960 cho đến tận ngày hôm
nay.
Cũng như vô số các „phong trào“ trá
hình khác của GHPGVNTN và „Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam“ vào những năm
1963 và những năm sau đó, cái gọi là „đạo Bụt dấn thân“ do tên Thích Nhất Hạnh
tái chế (vào thời điểm này còn là „Đạo Phật dấn thân“) thực sự là một thứ khẩu
hiệu tuyên truyền tẩy não lợi hại của đảng cs vn trên „mặt trận ngoại-giao – tôn-giáo“,
một trong các „mặt trận“ của đảng cs vn trong cuộc chiến xâm lăng VNCH. Món bả
độc này được pha trộn kỹ trong từng xuất cơm chay tươi sắc mầu „Phật giáo“ của
các miền „gia đình Phật tử Việt Nam“, dùng làm động cơ để đoàn ngũ hóa, khiển dụng
các tầng lớp thanh thiếu niên Phật tử háo hức nhẹ dạ, tập hợp lực lượng trù bị này
cho những cuộc xuống đường biểu tình, gây rối phản loạn của những „lực lượng PG
tranh thủ cách mạng“, „Phật giáo tranh đấu, bảo vệ Pháp nạn“,“chiến đoàn Phật tử
Trần Đại Thức“ v.v., đánh phá chính quyền trung ương VNCH, do những tên cộng sản
trá hình Phật giáo như Thích Trí Quang, Thích Quảng Độ… xách động.
Theo hoạch định của „bộ chính trị“ đảng cs vn tại Hà nội, để có một lực lượng trù bị dồi dào theo sách lược „biển người“ (do các „cố vấn“ đảng cs Tầu „chỉ đạo“, gọi là „chiến tranh nhân dân“), hậu thuẫn cho „Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam“ trong giai đoạn đó, thì sự cần thiết phải hình thành các hội đoàn, „đảng phái chính trị“ trá hình để có thêm nhiều lá phiếu „hợp pháp“, làm sao che đậy được dã tâm xâm lược của đảng cs vn, có ảnh hưởng càng mạnh càng tốt, để khống chế trực tiếp nghị trường thượng hạ viện Việt Nam Cộng Hòa là một thủ đoạn chước kế không thể thiếu.
Nhưng do áp lực căm thù, khát vọng xâm lược dồn nén, „bộ chính trị“ đảng cộng sản vn đành phải tự tay cắt bớt giây thần kinh xấu hổ của chính mình và các đồng chí cs trá hình Phật giáo trước khi đẩy chúng vào „mặt trận“ này. Cho nên sự trơ trẽn bỉ ổi hết còn biết xấu hổ đã trở thành một dị chứng do khuyết tật giải phẫu, không thể và bất cần giấu diếm của đảng cs vn. Khi chúng muốn qua tay GHPGVNTN thể hiện mối „quan tâm Phật Pháp thế quyền“ tại chính trường Việt Nam Cộng Hòa, mà không quên nhấn mạnh „động cơ chính trị“ của một „đảng chính trị Phật giáo“ do chúng giàn dựng đề cử. „Đảng chính trị Phật giáo“ này đã được giàn dựng để ra mắt, đại diện bởi Thích Hộ Giác, Thích Thiện Minh ở bề nổi, và do tên cs trá hình Phật giáo Thích Trí Quang „chỉ đạo“. Cái gọi là „Đảng chính trị Phật giáo Việt Nam“ này, tất nhiên, chỉ là xảo kế che đậy dã tâm, nằm trong chương trình xâm lăng của đảng cộng sản Bắc- Việt tại Hà Nội.
Sau đây là một trong những bằng chứng cụ thể, nói về thời điểm manh nha hình thành của cái gọi là „Đảng chính trị Phật giáo Việt Nam“, một trong những phiên bản đầu tiên của cái gọi là „Đạo Bụt dấn thân“ hành động, vì một lý tưởng…cộng sản trá hình, do Thích Nhất Hạnh là „chế tác giả“ vào những năm 1966 – 1969:
Theo nguồn: Nguyên ngữ tiếng Anh: King, S., & Queen, C. (Eds.). (1996). Engaged Buddhism: Buddhist Liberation Movements in Asia. New York: State University of New York.
Thich
Ho Giac, Thich Thien Minh und Thich Tri Quang, die KP Agenten im Mönchsgewand,
bei der Bekanntmachung der Parteigründung ihrer „Buddhistischen Politischen
Partei –Vietnamese Buddhist Force“
*
(Trong ành: Hàng
trước, từ trái sang) Thích Hộ Giác, Thích Thiện Minh, và Thích Trí Quang, những
tên cộng sản trá hình trong lớp áo tăng sỹ Phật giáo trong lễ ra mắt thành lập
đảng: „Đảng chính trị Phật giáo Việt Nam – Vietnamese Buddhist Force“.
Bởi vậy, xét về thực chất, cũng như tất
cả các tôn giáo và truyền thống tâm linh khác tại Việt Nam bị đảng cs vn lợi dụng,
„đạo Bụt dấn thân“ chỉ là cái „mặt nạ mới“ của một trong vô số những thủ đoạn
cũ được tân trang, hòng làm biến thoái „Đạo Phật“ để tiếp tục khiển dụng. Bất kể
được che đậy bằng những mặt nạ tinh vi như thế nào, cũng không thể che giấu được
một sự thật là: Chừng nào đảng cs vn còn chưa bị đập tan, thì chừng đó các tôn
giáo (ở đây là „Đạo Phật“) tại Việt Nam,
hay những đại diện trá hình của nó tại nước ngoài, còn là một thứ công cụ ngụy
trang hữu hiệu, che chắn bảo vệ quyền lực của đảng cộng sản vn.
„Đạo“ có thể „làm“, có thể „chỉ“ chẳng phải „Đạo“ chân thật! Vậy „đạo Bụt“ („của tên Thích Nhất Hạnh“) là một thứ không những có thể „làm“, mà hơn thế, hắn và đảng cs vn cứ thả sức tùy tiện „làm mới“ được, là cái gì ? Vậy nên những cái dù „được“ hay „bị làm mới“ kia, rõ ràng là một thứ „đạo đức cách mạng“ trá hình của đảng cộng sản vn! Vì đảng cs vn hiện nay vẫn đang từng ngày cưỡng bức „chỉ đạo“ toàn dân chui vào cũi „mặt trận tổ quốc“, trong đó có GHPGVN trong nước, và, qua „viện hóa đạo“ của GHPGVNTN trá hình tại hải ngoại. Vì thế, đảng csvn „chỉ đạo“ „viện hóa đạo“ GHPGVNTN bao nhiêu, càng chất chứa thêm nhiều tội ác bấy nhiêu. Trá hình tà đạo tội ác đã không thể rửa. Trá hình Phật giáo để gây tội ác thì dù vô lượng kiếp, trời, đất, thiên, nhân bất khả dung.
63. Vì cưỡng lệnh đảng, tên Thích Thiện
Minh đã bị các đồng chí của đảng cs trừng phạt loại bỏ, bị tra tấn đến chết
trong tù năm 1978. Thích Hộ Giác và Thích Nhất Hạnh vẫn ngoan cố đeo đuổi sự nghiệp
Việt gian của đảng cộng sản Việt Nam, là tiếp tục giăng bẫy phát triển „đường lối
chính trị“ của „đảng chính trị Phật giáo“ này tại phương Tây. Cùng với người
tình đồng chí Cao Ngọc Phượng, Thích Nhất Hạnh đã trở thành giới „lãnh đạo“ của
đảng này tại phương Tây, nhưng dưới cái tên trá hình trái khoáy, khiên cưỡng: „Đạo
Bụt nhập thế “. Nhưng với thế giới Phương Tây tự do thì bất kỳ thứ gì, một cơ hội
để trở thành „hợp thời“, kể cả những món
bả độc cộng sản mầu mè trá hình Phật giáo trên đây, cũng chỉ là vấn đề thời
gian.
64. Theo nghĩa này, một „cơ hội“ đặc biệt
„hợp thời“ cho Thích Nhất Hạnh cũng đã đến, khiến y không thể không lợi dụng để
thi thố công khai nơi công cộng cái „ý thức, trách nhiệm chính trị“ đểu giả có
một không hai của đảng cs vn qua cách thể hiện trơ trẽn khả ố của „đạo Bụt nhập
thế“, là thừa dịp vụ tấn công của "quân khủng bố" vào hai tòa nhà Trung tâm
Thương mại Thế giới ngày 11. 09. 2011 tại New York, USA.
Nhân một thời nói chuyện
trong một Thánh đường tại New York, hắn nêu ra một „sự kiện“ khác, cố tình gán ghép
„sự kiện“ đó với cuộc tấn công "khủng bố "đặc biệt nghiêm trọng này. Đó là con số
„300.000 (ba trăm nghìn) nạn nhân Việt Nam“ của một thị xã, nay là thành phố Bến
Tre, „bị bom Mỹ sát hại“ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Trích
dẫn nguyên văn: …"I wrote this poem
during the Vietnam war after I heard about the bombing of Ben Tre city. The
city of 300.000 was destroyed because seven guerrillas shot several rounds of
unsuccessful anti-aircraft gunfire and then left. My pain was profound". Trích
dịch, theo nguồn “Google”: “… Tôi đã viết
bài thơ này trong thời gian Chiến Tranh Việt Nam sau khi được nghe thành phố Bến
Tre bị bỏ bom hủy diệt. Thành phố 300,000 ngàn dân đã bị hủy diệt chỉ vì bẩy du
kích bắn năm ba tràng đạn phòng không một cách không hiệu quả rồi bỏ đi. Lòng
đau đớn của tôi thật tột cùng.“
Trong tháng 11. 2001 này, Thích Nhất Hạnh đầu tư hàng chục nghìn Dollar (45.000 Dollar) dành để đăng tải hai kỳ quảng cáo cho một thời diễn giảng của hắn vào tối 25. 09. 2001, tại Thánh đường Riverside, trên tờ Thời báo nổi tiếng là tờ „New York Times“, trong đó có đăng đoạn trích dẫn nói trên. Vì chắc mẩm rằng cái giọng lưỡi rắn độc nói tiếng Anh bồi của hắn chỉ để dành cho những cái tai của người Anh, Mỹ và phương Tây nghe được, còn những người đang ở Việt Nam, một cái ngục tù không tường vách, đã bị đảng cộng sản vn “bịt tai rút lưỡi”, tẩy não sạch trơn rồi, thì làm sao mà nghe cho thấu những gì ở bên ngoài, nghe rồi, lấy gì mà hiểu mà nói cho được. Những người Tây phương kia ai biết được Bến Tre ở đâu? Ai hỏi lại làm gì? Nếu có thì y đã có thừa những thủ đoạn „á khẩu“ rành nghề lâu năm để đối phó.
Dân số thị xã thành phố Bến Tre hôm nay (năm 2012) chưa vượt quá 143.639 người. Và tất cả người Việt Nam biết rằng cái „sự kiện“ nêu trên, do tên Thích Nhất Hạnh xúc xiểm tuyên truyền, hoàn toàn là một thứ bịa đặt trắng trợn. Ngoại trừ tập đoàn văn bút trí nô tay sai của đảng cộng sản vn và GHPGVNTN vẫn ngoan cố tìm cách bào chữa chạy tội cho tên Việt gian cộng sản Thích Nhất Hạnh trá hinh Phật giáo này. Cái lưỡi rắn nước đôi của Thích Nhất Hạnh, nhìn cách nào cũng không thể che giấu, chính là của con rắn độc đảng cộng sản vn, với nó, đồng bào Việt Nam trong nước và khắp nơi trên thế giới đã có thật nhiều kinh nghiệm cay đắng và đau thương.
Cho nên, âm hưởng của người dân New York trong giờ phút kinh hoàng vì mất mát tổn thất sau vụ "khủng bố", đối lại những lời xúc xiểm đâm thọc và bịa đặt của Thích Nhất Hạnh thật rõ ràng: „Thích Nhất Hạnh, hãy cút đi! „ („Thich Nhat Hanh Go Home !“).
65. Có một thực tại trâng tráo nhưng là sự
thật, đó là Phật giáo nói chung, và đặc biệt là Thiền nói riêng đã từ lâu, chỉ được
đảng cộng sản vn, GHPGVNTN và Thích Nhất Hạnh coi như một thứ gì đó để lợi dụng,
bất kể gọi nó là thứ gì. Nhưng Thiền càng ngày được coi là một thứ „thương phẩm tâm linh“ chiến lược béo bở, lợi
hại, và giờ đây nhất thiết phải được „làm mới“, quảng bá rao bán theo những
phương thức quản trị kinh doanh kinh tế thị trường hiện đại, tinh vi hơn, lại
là một điều hoàn dễ hiểu và không có gì lạ. Vì điều này (lợi dụng Phật giáo tinh
vi hơn) cũng vừa vặn nằm trong những nghị quyết, những thủ đoạn chiến lược bẩn
thỉu của đảng cộng sản Việt Nam, gọi là „đảng đổi mới“ ( nói gọn là „Đổi mới“).
Vi sau khi „Liên bang xô-viết“ sụp đổ, để duy trì quyền lực độc tài, đảng cs vn
phải „đổi mới“,“ đổi mới“ để tiếp tục cai trị.
66. Nhưng, cái gọi là „đảng cộng sản Việt
Nam“ đã từng có biết bao nhiêu lần „đổi mới“? Mỗi lần biến tướng, thay mặt nạ, chỉ
để „đổi mới“ cái bản mặt, còn bản chất Việt gian cố cựu thì bất khả thay đổi.
Nên đảng cs vn đều có dự trữ sẵn những cái roi để „tự trừng phạt“, luôn cả dàn
ca kịch „tự tố khổ“, „vạch sai lầm“, „sám hối“ để „sửa sai“ rất khả ố, giờ đây
còn thêm màn xì xụp „lên đồng rước đám“ lưu manh, mịt mù khói hương, càng thêm buồn nôn ngẹn
thở. Mỗi lần đảng csvn „đổi mới“ các „chùa tự“ do đảng cs vn „đầu tư gửi gắm“, tạo
dựng kiến thiết càng mọc thêm nhiều hơn, thêm cao hơn và thêm tầm „vĩ đại“ hơn.
Nhưng người dân Việt Nam bị trị thực sự càng trở nên nghèo hơn, vì các thùng
„Ai bảo cúng dường“(?) này, cũng phải tương xứng nhân lên nhiều hơn, to hơn, đầy
hơn và tất nhiên kiên cố hơn. Tại những nơi mịt mù hương khói đó chưa bao bao
giờ là những thùng „Tam Bảo Cúng Dường“, vì trên thực tế nó là những cái két bạc
có khóa („Tresoren“), kẻ giữ chìa khóa là đảng cộng sản vn, nên việc những két
bạc đó phải thuê thêm người canh gác, thật không có gì là khó hiểu.
Đơn cử hai ví dụ: Một, là „Chùa Bái Đính“ mới hoàn thành tại Ninh Bình, miền Bắc Việt Nam, về thực chất, chỉ là một bản sao của sự tham vọng, được thể hiện qua phong cách kiến trúc kiểu… Tầu. Đảng cộng sản vn hiện tại là kẻ „chủ đầu tư“ và „sở hữu“ nó, một khi đã học được cách „quản lý tôn giáo“ không thể chỉ dừng lại ở „khống chế“ mà phải „đầu tư tôn giáo“ để thủ lợi theo kiểu đảng cộng sản Tầu, dù „chậm lụt“, nhưng lòng tham lại vượt trội, tất nhiên cũng muốn đồng tiền đã cướp bóc được của nhân dân từ nhiều thập niên qua, bỗng chốc được nhân lên ấp bội. Cho nên ngôi „chùa“ này thực sự đã „vĩ đại“ hơn nhiều những ngôi xếp vào hàng „Đại tự“, trong „Tử Cấm Thành“, tại Bắc Kinh.
Hai, là „chùa Hồ“, một trong vô số những chứng tích tội ác của đảng cộng sản vn qua những thủ đoạn „thần thánh hóa“ tên đại Việt gian Hồ Chí Minh. „Chùa Hồ“ tại tỉnh Bình Dương, miền Nam Việt Nam đã phá vỡ nhiều „cơn sốt kỷ lục Phật giáo“. „Thượng tọa“ ở hàng trước, trên bệ thờ của „chùa“ là bức tượng quá cỡ của Hồ ngồi ghế mây, tất cả đều mạ vàng ròng 24 Karat. Khách hành hương muốn tỏ lòng kính ngưỡng lễ lậy Đức Phật và các vị Thần, Anh hùng Dân tộc, ngồi ở hàng sau, xin cứ tự nhiên! Lòng thành kính qua sự lễ lậy của những người dân đã bị tẩy não này trước hết, đã được đảng cộng sản vn lợi dụng dành cho hình tượng tên „bố già“ xảo quyệt đại Việt gian Hồ Chí Minh và đám hậu sinh không thể từ bỏ được thói ăn trên ngồi trước kia, còn xác Hồ thì đang phải cười nham hiểm, loại nụ cười của những cái xác chết khô không được chôn cất, tại một nơi khác, nằm về phía Bắc Hà Nội. Vì trong „lăng Hồ“ tại Ba Đình, xác hắn đã được thay thế từ lâu bởi một hình nộm bằng sáp.
Phần nội thất của „Chùa Hồ“ được xây dựng đa phần bằng vật liệu quý hiếm, được bảo quản bằng máy điều hòa nhiệt độ và canh gác cẩn mật không kém cái „lăng Hồ“ nói trên tại Hà Nội. Những khách hành hương muốn giải trí và tiêu cho hết tiền sau khi lễ lậy Hồ thỏa thuê, còn muốn đi, để chiêm ngưỡng cho hết quần thể „chùa Hồ“, có loại hình „kiến trúc Disney Land“, thuộc loại kiến trúc ăn xổi ở thì của trào lưu „kiến trúc giả tạo“, nằm trong quần thể du lịch „Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến“, họ chỉ có thể dùng xe chạy điện do các công ty của đảng bao thầu, đang nhẫn nại mỉm cười, lừa lái đưa đón khách.
Cứ mỗi lần đảng cộng sản vn „đổi mới“, là con số những người bị bắt giam, cầm tù, quản chế vì thực sự lên tiếng vạch mặt tố cáo đảng cộng sản vn là một lũ Việt gian, lại tăng lên nhiều hơn. Cái thòng lọng tròng lên cổ đồng bào Việt Nam đang bị cai trị sẽ thắt chặt hơn, để quyền lực thống trị và cai trị của đảng cs vn bớt bị lung lay hơn.
Ho
ist überall KP-Vorsitzender, auch in der „Ho Pagode“ in Binh Duong, Vietnam.
Mit hochkarätigem Gold überzogen, sitzt seine Statue vor der Buddha Statue.
Daneben ist die KP Flagge gehisst.
*
Là chủ tịch muôn năm của đảng cộng
sản vn, ăn trên ngồi trước đã là một cái đặc quyền của Hồ, cho nên, trong „chùa
Hồ“tại Bình Dương, Việt Nam, đảng vẫn dành cho hắn cái đặc quyền ăn trên ngồi
trước cả dân tộc và hơn thế nữa. Bức tượng
mạ vàng ròng 24 Karat của hắn „thượng tọa“ trước tôn tượng Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni. Bên cạnh lá cờ đỏ máu của đảng cộng sản vn.
67. Theo như đã dẫn ở trên, một trong những
câu để đời của tên tổ „cộng sản“ Karl Marx, được coi như những „nghị quyết“ của
đảng cộng sản vn: „Tôn giáo là thuốc phiện
của nhân dân“ (nguyên ngữ trong tiếng Đức :“Religion ist das Opium des Volkes“), và đã từng bị bài trừ loại bỏ.
Nhưng thuốc phiện là một thứ thảo dược đặc biệt quý hiếm, nên trong hiện tại,
theo những thủ đoạn „đổi mới“ kiểu „biến tướng“ có tên „nghị quyết này nọ“ nói
trên, thứ „thuốc phiện tôn giáo“ này lại được đảng cs vn „gieo trồng“ một khối
lượng lớn hơn bao giờ hết (bằng thủ đoạn „tôn
giáo, lễ, hội“ triền miên, lòe loẹt, tốn kém và lố bịch). Qua bàn tay của GHPGVN,
GHPGVNTN cùng Thích Nhất Hạnh và tay sai, là những tên cộng sản trá hình Phật
giáo, một lũ con buôn hiện đại, dùng „thuốc phiện tôn giáo“ đầu độc nhân dân, nguồn
thu lợi tức của đảng cộng sản vn từ thứ „thuốc
phiện là tôn giáo của nhân dân“ này, càng ngày càng lớn hơn bao giờ hết. Thử
hỏi rằng, liệu nhân dân Việt Nam đã bị „say thuốc quá liều“ cho đến có thể bị „ngộ
độc“ bởi thứ „thần chết đỏ“ nói trên hay không, thì cũng nên hỏi, ở đâu và có bao giờ, những kẻ buôn bán thuốc
phiện lại quan tâm đến chuyện đó.
Vì một trong những cái đích đã được nhắm
tới của sự mê hoặc dân chúng bằng „tôn giáo đỏ“ theo nghĩa này, chính là: Làm
sao để tất cả các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là tầng lớp trẻ, có tri thức, bị
đánh lạc hướng, sẽ trở nên nông cạn, mê muội, đồi trụy, bạc nhược, sợ hãi, cầu
an…, mất sức đề kháng, dẫn đến vong bản, thui trột ý thức dân tộc, quên đi nỗi
nhục mất nước…. Để rồi phải chấp nhận tất cả những gì là tội ác của đảng cộng sản
vn: Đã và đang làm Việt gian, cai trị dân tộc trong ngôi vị chư hầu thái thú
dài hạn cho đảng cs Tầu, đồng hóa bán đứng tổ quốc, dân tộc Việt Nam cho Tầu Hán phương Bắc...
Tất cả những gì thuộc về ý chí, tri thức, lòng yêu nước, và sức mạnh phản kháng của đồng bào Việt Nam… chỉ để bị đảng cs vn lợi dụng cướp trắng, hoặc hướng vào hết những „trận địa giả“ này, đến những „lễ hội tôn giáo mê hồn“ khác. Chỉ nhắc lại những luận điệu do đảng cs cò mồi, tẩy não, không thể nhận ra cái đại họa to lớn nhất của dân tộc trước mắt, chính là: Đảng cộng sản Việt Nam đã là một tập đoàn Việt-gian từ trong trứng nước và trong hiện tại! Chúng chính là kẻ nội thù số một và là kẻ thù trước mắt của dân tộc Việt Nam! Chúng đang từng ngày đàn áp nhân dân, để có thể bán hết đất nước, tài nguyên, lãnh thổ cho Tầu Hán và các thế lực tài phiệt quốc tế, giúp đảng cs Tầu đồng hóa dân tộc Việt Nam, xáp nhập Việt nam vào nước Tầu đại Hán „Trung cộng“. Chúng chính là kẻ Việt gian nội thù đại phản tặc, đáng phải bị trừng trị đập tan ngay trước nhất !
Nhưng tất cả những gì nêu ở đây, chỉ là một phần nhỏ của cái gọi là „tự do tôn giáo“ dưới ách cai trị của đảng cộng sản tại đất nước Việt Nam hôm nay.
68. Một trong những „nền tảng hạ tầng cơ sở“
của đảng cộng sản vn tại nước ngoài, dành làm môi trường ẩn náu cho các hoạt động của
đám cán bộ cộng sản trong và ngoài GHPGVNTN hiện tại, phần nhiều, chính là do sự
hình thành và phát triển của những „chi hội Phật tử Việt Nam tỵ nạn“ sau ngày
30.Tháng Tư. 1975 tại các nước có người Việt Nam xin tỵ nạn. Phần lớn những chi
hội Phật tử này, đều có những „gia đình Phật tử“ kèm theo. Ngay từ những ngày
thành lập, đã có sự trà trộn lèo lái của đám cán bộ cộng sản nằm vùng, và những
tên tay sai Việt gian cộng sản trá hình tăng sỹ Phật giáo, sau này còn có thêm
„Việt Tân“ trá hình.
Những „hạ tầng cơ sở“ này („Chùa, tự“, „niệm Phật đường“)
đã được GHPGVNTN qua những vệ tinh của nó là các „Gia đình Phật Tử Việt Nam“ xây
dựng, bài thiết một cách khang trang. Để sau đó mở cửa cho hàng loạt những tên
cộng sản trá hình Phật giáo khác từ
trong nước sang dần dần thay thế chiếm giữ. Từ trên „bàn thờ Phật“, chúng cố giữ
vẻ thâm trầm giả tạo, kìm giữ những nụ cười nhạt hơn nước cất, mục kích các tầng
lớp „Phật Tử“ phủ phục, quỳ lậy lễ bái chúng sát đất. Sự cung kính của các Phật
tử thuần thành nhẹ dạ này thật không thua kém sự cung kính ngưỡng mộ vừa nêu
trên, của những người đi hành hương „chùa Hồ“, dành cho vị „thượng tọa trụ trì“
của nó. Nhưng, tất cả những gì lũ cộng sản trá hình này, từ dáng vẻ hình thức,
theo thành ngữ tiếng Đức gọi là “aalglatt“,
tức là đầu mắt đều tương tựa „trơn như lươn… đỏ“ này, còn thực sự quan tâm đến, lại
chính là sự đầy vơi của những cái thùng „Cúng dường Tam Bảo“ vào lúc cuối ngày.
Tệ nạn nô lệ „Tam Bảo“,hoặc „Tam Bảo
Điền“, „Tam Bảo Nô“ là những thực trạng lịch sử không thể không nhắc đến trong
dòng sử Việt. Nhưng, tệ nạn nô lệ „Tam Bảo“ trá hình này thực sự đang ngày càng
gia tăng một cách chóng mặt hơn trong chế độ ngụy quyền Việt gian cộng sản tại
Việt Nam hôm nay. Hoặc những người Việt Nam trong nước đã bị tẩy não, hoặc những
người tỵ nạn „nhẹ dạ chóng quên“ có tên „Phật tử thuần thành“ trên đây tại nước
ngoài, thực sự đang là những con mồi béo bở cho những thủ đoạn tuyên truyền tẩy
não, khống chế nhân dân làm nô lệ, qua chiêu bài „tôn giáo“ của đảng cộng sản
Việt Nam. Tại Việt Nam trong quá khứ, những
lớp người này được gọi là „Tam Bảo Nô“, trong hiện tại chỉ thêm hai chữ „hiện đại“.
Theo dòng người tỵ nạn, trong những cái gọi là „Gia đình Phật tử“ và vô số các tổ chức vệ tinh tay sai của GHPGVNTN nói trên, chưa thấy phần đông những số người này có ý định muốn „từ bỏ giai cấp“ nô lệ nói trên. Vì không thể biết rằng, đảng cộng sản vn đã dầy công mang cái dịch vụ béo bở „xin được làm Tam Bảo Nô“ đó đến tận nơi nước sở tại, là nơi họ đang xin „tỵ nạn Việt gian cộng sản“. Để rồi, cũng đảng cộng sản Việt Nam, qua tay GHPGVNTN, Việt Tân và Thích Nhất Hạnh đã dùng chính công sức của những người tỵ nạn, dựng nên những ngôi „Chùa“ cho những đồng chí của đảng „trụ trì“, quảng bá khuyến khích người tỵ nạn đến „lậy lục xin xỏ“ và cứ „tùy tâm“ nộp „lệ phí“ cho cái „dịch vụ“ nêu trên qua hình thức „cúng dường tam bảo“. Thật đắt và cay đắng, cái giá của sự nô lệ tâm thức.
Một trong những gợi ý nhỏ dưới đây có thể là một ví dụ góp phần nào soi sáng mối quan hệ „nhân quả nghiệp báo“ của „hiện tượng nô lệ Tam Bảo“ nói trên. Ví dụ này có hai vế, nay chỉ nói một, đại ý như sau: „Tường ngục xây bằng đá, giam mãi cũng có ngày ra. Tường ngục xây bằng tâm thức thì bất khả“. Nói gần hơn: Một người tâm thức còn ở trong ngục, dù nói hay làm, vẫn thường tự trói mình, dù bản thân họ, từ lâu đã sống dưới trời tự do. „Tam Bảo Nô“ còn gọi là „Ba lần Nô lệ“. (Phần chi tiết, xin xem phần 2, nguyên ngữ tiếng Đức, sau bài viết này).
69. Nhưng, các hội đoàn chân rết đủ loại,
từ xã hội, văn hóa, từ thiện, đến tôn giáo…trá hình của đảng Việt gian cộng sản
trong tay GHPGVNTN tại những quốc gia chủ nhà tại Tây phương, còn có thêm một
vai trò quan trọng và nguy hiểm hơn nhiều.
Được sự điều khiển trực tiếp bởi đảng Việt gian cộng sản và cả đảng cộng sản… Tầu.
Thông qua các chi bộ đảng, là cánh tay tội ác nối dài của chúng cài cắm tại hải
ngoại, nhân sự, danh xưng và tiềm năng của các tổ chức hội đoàn nói trên đã được
đảng cs khiển dụng và lợi dụng như những phương tiện ngụy trang hữu hiệu, để
thâm nhập vào các tổ chức, hội đoàn, cơ quan công quyền nhà nước và chính phủ của
các nước phương Tây sở tại. Tất cả những sự thâm nhập này được lợi dụng làm
bình phong ngụy trang mục đích, những mục đích ẩn náu đằng sau tất cả các mục
đích khác, đó là sự „quan tâm tò mò“ của giới tình báo công nghiệp/kinh tế và
quân sự của đảng cộng sản… Tầu.
Để các hoạt động của đảng cộng sản Tầu, là kẻ
giấu mặt, giật dây khống chế đảng Việt gian cs, không bị lộ tẩy hoặc thiệt hại,
lũ cán bộ tay sai đảng cs vn đã bị đảng cs Tầu khiển dụng đẩy ra làm vật thí,
trong vai trò tay sai, khi dùng các cơ sở hội đoàn người Việt đi „tiền thám“ thăm
dò hộ chúng. Mặc dù là hai „đảng cộng sản anh em“ (Hán-gian, Việt-gian), nhưng
lũ Việt-gian cs chỉ được học cách quỳ lậy và cầm dao đằng lưỡi. Dù có thế nào, vẫn
như hai tên cướp, mỗi tên bị xích một tay bởi luật rừng của hai đảng cộng sản,
nên vẫn cho phép chúng hoạt động „tay trong tay“. (Ở đây sẽ không đi vào chi tiết).
Ein Bild – ersetzt tausend Worte:
Die Schießübung und der Umgang mit den
modernsten Tötungswaffen gehört zur „buddhistischen Ausbildung“ der Kommunistischen Kader im Mönchsgewand,
übernommen durch die Armee der Kommunistischen Partei.
*
Một
bức ảnh thay thế nghìn lời nói:
Học bắn giết và xử dụng thành thạo
các loại vũ khí sát thương hiện đại là „bài học căn bản“ trong chương trình „đào tạo chuyên tu Phật Giáo“ của các
tên cộng sản trá hình giả danh Phật giáo này. Bài học „thực hành tác xạ“ được
hướng dẫn bởi những tên sỹ quan ngụy quân đảng cộng sản đảm nhiệm.
( Trong ảnh: trên trường bắn của một
học viện quân sự Tầu)
70. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của
đám an ninh Việt gian cộng sản đang hoạt động trá hình tại hải ngoại (ví dụ như
đảng „Việt Tân“), là cộng tác chặt chẽ với những tên Việt gian cs trá hình như Thích
Nhất Hạnh và GHPGVNTN, dùng tất cả mọi
phương tiện để tập hợp đoàn ngũ hóa đại khối người Việt Nam tại hải ngoại
về một mối để khống chế và lợi dụng. Để thực thi thủ đoạn này, đảng Việt gian cộng
sản đã cho ra nhiều „nghị quyết“, trong đó có „nghị quyết 36“. Nội dung của nó,
cũng như tất cả những „văn kiện, nghị quyết„ do „bộ chính trị“ đảng Việt gian cộng
sản đã từng đưa ra, là những bằng chứng tội ác cụ thể nhất của đảng Việt gian cộng
sản đối với dân tộc Việt Nam, và tự nó xác nhận những tội ác này đã được che đậy
trâng tráo bằng những từ ngữ lừa dối xảo trá tinh vi như thế nào. Những tội
ác tầy trời này, nếu liệt kê ra sẽ dài
ít nhất là bằng chiều dài sự tồn tại của đảng cs vn, nhưng, những hệ lụy hậu quả
tàn phá của nó gây ra thì trong muôn thế hệ mai sau cũng không gì có thể tẩy rửa
cho được.
71. Đặc biệt là tại Mỹ, nơi có một số đông
người Việt Nam tỵ nạn chế độ ngụy quyền Việt gian cộng sản cư ngụ, những tên cộng
sản trá hình Phật giáo trong và ngoài GHPGVNTN đều biết rằng: Thật là một cơ hội
có tính quyết định, nếu tất cả những „Phật tử thuần thành“ mê muội nhẹ dạ kia, được
gom hết về một mối để chúng „chỉ đạo“, thì những „nghị quyết“ của đảng Việt
gian cs cũng sẽ có một „cơ hội“ nào đó được thực hiện. Vì theo những toan tính
thủ đoạn của đảng Việt gian cs được thể hiện ra cái „nghị quyết“ có đủ 36 mưu
ma chước quỷ kia, thì bản thân con số những người kể trên thực sự đã là một khối
„cử tri“ có khối lượng đầu phiếu đáng kể. Và trên chính trường dân chủ của Mỹ,
đối với những vị dân biểu địa phương khi bắt đầu bước vào con đường „chính trị
thực tiễn“ thì mỗi mỗi lá phiếu bầu, bất kể từ đâu đến, đều là những „cơ hội“
có sức hấp dẫn không thể bỏ qua.
Những vị dân biểu địa phương, là công dân và có quốc tịch Mỹ (đa phần gốc Á Châu) được sự mồi chài giàn dựng của giới điệp báo Việt gian cs nằm vùng tại địa phương, hoặc hoạt động trên bề nổi, có an ninh Việt gian cộng sản trá hình đảng „Việt Tân“ hứa hẹn, sẽ được sự ủng hộ bởi một số lượng (không có thực) của những đông đảo cử tri Phật tử do GHPGVNTN „chỉ đạo“, nên họ có thể yên tâm ra ứng cử tại các đơn vị bầu cử chính quyền địa phương Tiểu bang. Sau đó, dù họ có thành đạt hay không, để có thể „tái tranh cử“, sẽ là những màn kịch „đi lại“ với lũ Việt gian cs trá hình Phật giáo trong những vai trò „cao tăng“ hoặc „tăng thống“ của GHPGVNTN.
Có những tên „dân biểu“ trá hình, là tay sai của Việt gian cộng sản đã bị lật tẩy, còn muốn lập hẳn một tuyến hàng không quốc tế từ Mỹ tới Việt Nam, để „đàm đạo“ trực tiếp với… đảng Việt gian cộng sản. Hoặc đảng Việt gian cộng sản có thể qua đó trực tiếp thông qua luật pháp Mỹ để „nhuộm đỏ“ cộng đồng người Việt Nam ty nạn tại hải ngoại. Bằng cách này, đại khối người Việt Nam tỵ nạn chế độ ngụy quyền Việt gian cộng sản tại hải ngoại, ít nhất là tại Mỹ cũng sẽ giống như ở Việt Nam quốc nội, bị đảng cs chặn họng bóp cổ mà chết.
Hàng loạt những sự móc nối câu kết giữa những tên Việt gian cộng sản trá hình và các vị tân dân biểu, nghị viên trong các cấp chính quyền địa phương tiểu bang và liên bang, tiêu biểu là tại Mỹ đều đã bị đồng bào Việt Nam tại hải ngoại tố giác và lật tẩy, cho thấy, những „nghị quyết“ trên từ xưa đến nay, chỉ là một trong vô số những thủ đoạn tội ác của đảng Việt gian cộng sản.
Và cũng ở đây, sự „ăn hại đái nát“ đã
là một khuyết tật bất khả chữa trị của những tay cộng sản trá hình Phật giáo GHPGVNTN
tại hải ngoại.
Thích Chánh Lạc tức (Lê Kim cương) bị Tòa án Mỹ phạt bồi thường 4.8 triệu Dollar về tội vu khống và lạm dụng tình dục trẻ thành niên |
Để có thể móc thêm được nhiều tiền hơn nữa một
cách „kín đáo“ từ hầu bao của người phương Tây hảo tâm nhẹ dạ, chúng đã không
chừa một kế sách nào. Một trong những thủ đoạn quen thuộc mà kẻ hung thủ là đảng
Việt gian cs thường khai thác tối đa, là đem các nạn nhân của nó: các trẻ em
nghèo thương tật ra trình diễn sự thảm thương khốn khó, và lập lờ thêm vào sau
danh từ „nạn nhân“ hai chữ „chiến tranh“ để đánh động lòng trắc ẩn. Theo những
dữ liệu thống kê sơ bộ đặc biệt khiêm tốn vào năm 2010, thì mỗi năm người Việt
Nam hải ngoại đã gửi về Việt Nam một số ngân khoản trên 2 tỷ Dollar. Đối với đảng
Việt gian cộng sản và bộ máy nhà nước ngụy quyền bù nhìn, thì số ngân khoản
trên thật như những quả sung rụng bằng vàng, vừa đủ để giữ cho nó khỏi bị chết
chìm.
73. Cái gọi là “Phòng thông tin Phật giáoquốc tế“
„IBIB-InternationalBuddhist Information Bureau“ với trụ sở tại Paris là đại diện chính thức
của cái gọi là „Văn phòng 2 - Viện hóa đạo GHPGVNTN“ tại nước ngoài. Chỉ một
chi tiết thật nhỏ sau đây đã thừa đủ cho thấy đám tay sai của đảng cs vn là GHPGVNTN
tại Đức, từ trên xuống dưới đã tự đấu tố vạch mặt cái „lý lịch“ Việt gian cs của
nhau khi „dịch“ chữ „Viện Hóa Đạo“ sang tiếng Đức (trích dẫn nguyên văn) là „Propaganda
Institut“. Hai cơ sở „Lá bối“ và Quê Mẹ“
là một trong những nơi phát tán, thông tin độc hại của Thích Nhất Hạnh và người
tình đồng chí Cao Ngọc Phượng, cùng hai tên Võ Văn Ái và Penelope Faulkner.
Tên Việt gian cộng sản Võ
Văn Ái không phải là một cái tên mới lạ. Hắn và Walter Fabian, một tên cộng sản
Đông-Đức cũ, cả hai là những tên đầu xỏ, thường tổ chức những cuộc biểu tình phá
rối ủng hộ cộng sản với những khẩu hiệu xách động trá hình „chống chiến tranh
Việt Nam„ và đã từng bị cảnh sát Tây-Đức bắt giữ vào đêm ngày 8 rạng ngày
09.05.1967 tại Munich-Bavaria (München-Bayern).
74. Đeo đuổi sự nghiệp Việt gian bán nước
phản dân tộc của đảng cộng sản vn, tên Việt gian cộng sản Võ Văn Ái vẫn sát cánh
cùng lũ Thích Nhất Hạnh, Thích Quảng Độ, Thích Chánh Lạc…, GHPGVNTN và „Việt
Tân“, tiếp tục cuộc „đấu tranh trường kỳ“ của đảng cộng sản vn nhắm vào khối
người Việt Nam tỵ nạn chế độ ngụy quyền VGCS tại hải ngoại. Nấp sau những khẩu
hiệu „đấu tranh“ trá hình, trước sau như
một đầy tội ác mà như hắn đã từng gây ra từ đầu những năm 1960 đến nay, nhưng
giờ đây thay vào đó là những „trận địa giả“ cùng những cái bánh vẽ cò mồi „Tự
do, dân chủ, và nhân quyền cho Việt Nam“. Từ năm 2004 đến 2009 Võ Văn Ái đã nhận
được một số tiền 548.000 Dollar, tài trợ cho những hoạt động phá hoại của hắn từ
một tổ chức trá hình có tên: NED („The National Endowment for Democracy“).
75. Một trong những địa điểm chính, thường
là nơi xuất phát các hoạt động đánh phá cộng đồng người Việt Nam ty nạn của hai
tên Việt gian tay sai Võ Văn Ái và Pelelope Faulkner hiện nay là „ chùa Điều Ngự“
tại California - 92683, USA. Từ đây chúng dùng „văn phòng 2 viện hóa đạo -
GHPGVNTN“ làm phương tiện phun nọc độc tuyên truyền cho đảng cộng sản vn, tô vẽ
tên tuổi, đánh bóng xóa tội ác cho những tên Việt gian cộng sản trá hình „tăng
thống Phật giáo“. Thích Quảng Độ hoặc Thích Nhất Hạnh thường là những tên được tập
đoàn văn bút trí nô, tay sai Việt gian cộng sản tâng bốc, để mồi chài đánh lừa
dư luận „đề cử“ những tên tội đồ này ra làm ứng viên „giải thưởng Nobel Hòa bình“.
Tên Việt gian cộng sản
Võ Văn Ái thường rêu rao lợi dụng vai trò „phát ngôn nhân“ „đại diện cho
GHPGVNTN trong nước và hải ngoại“ để lừa lái dư luận tại phương Tây, hòng „hợp
thức hóa“ tư cách trá hình „tỵ nạn“ cho hàng loạt lũ cán bộ do đảng Việt gian cộng
sản từ Việt Nam gửi qua cài cắm, trong những vỏ bọc „nhà sư Phật giáo tỵ nạn“ đểu,
hoặc những „nhà đấu tranh dân chủ“ cuội…trá hình.
Nấp sau chiêu bài „tôn giáo“ và những cái „bẫy trận địa giả“ do đảng Việt gian cộng sản giàn dựng, Võ Văn Ái cũng như Thích Nhất Hạnh, gài bẫy, bòn rút tiền bạc, lòng tin của những người Việt Nam tỵ nạn mắc chứng „hay quên“, cùng người phương Tây hảo tâm „nhẹ dạ“, gửi về nuôi đảng Việt gian cs tại Việt Nam, qua những tổ chức „từ thiện xã hội“ trá hình. (Một trong số đó, ví dụ như „Maitreya Fond“.v.v.).
76. Tất cả những cái gọi là phong trào „đấu tranh“ trá hình, đòi hỏi „dân
chủ và nhân quyền cho Việt Nam“ do đảng Việt gian cs giàn dựng cho tay sai của
chúng là GHPGVNTN, Nhất Hạnh, Quảng Độ, Võ Văn Ái và Việt Tân… thực thi, đều bị
đại khối cộng đồng người Việt Nam tỵ nạn chế độ ngụy quyền vgcs tại hải ngoại
phát giác lật tẩy, lên án và tẩy chay. Đại đa phần những vụ việc này đều đã được
đăng tải công khai trên liên mạng thông tin toàn cầu „internet“ (được cập nhật từng ngày), cũng như bằng vô số những tác phẩm,
ấn phẩm đủ mọi thể loại truyền thông văn hóa nghệ thuật… phong phú khác. Tất cả lũ Việt gian cộng sản trá hình Phật
giáo, Thiên Chúa giáo…, hoặc những „nhà đấu tranh dân chủ“ cuội xảo trá đủ loại
và vô số tay sai, không xót một tên nào, do đảng vgcs gửi ra cài cắm bất kể là
công khai hay bí mật tại hải ngoại, đều đã và sẽ cùng phải chung một số phận.
Vì giọng điệu và hành tung (…) của chúng dù có ngụy trang biến tướng cách gì cũng không thể che giấu được dã tâm và tội ác Việt gian bán nước, phản dân tộc của đảng cộng sản Việt Nam. Chúng câm lặng hoặc làm ngơ, hoặc cố tình lèo lái xuyên tạc bôi xóa, khỏa lấp một sự thật lịch sử là: Chính tập đoàn đcsvn và tay sai là những kẻ nội thù phản tặc, chính là hung thủ, là kẻ chủ phạm đã tự nguyện làm thân khuyển mã cho đảng cộng sản „Trung quốc“, đã và đang biến đất nước Việt Nam dần trở thành phụ thuộc, như một quận huyện chư hầu bán chính thức của Tầu Hán Trung cộng.
Đơn cử một ví dụ nhỏ trong hiện tại: Tất cả các phong trào, biểu tình và đòi hỏi chính đáng của đồng bào Việt Nam bị trị tại quốc nội, đặc biệt là giới trẻ vùng lên thể hiện ý chí yêu nước bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ trong các sự kiện biên giới, hải đảo như Hoàng Sa, Trường Sa do „Trung cộng“ xâm lược chiếm giữ, đều bị đảng csvn lợi dụng hoặc dùng tất cả mọi phương tiện, huy động lực lượng công an côn đồ và một số đông đảo lũ tội phạm hình sự bị khiển dụng, đàn áp khủng bố, bắt bớ, giam giữ và tra tấn một cách dã man. Không có lấy một tên Việt gian cộng sản trá hình tăng sỹ Phật giáo GHPGVNTN hoặc một tên „tăng thống“ nào có thể một lần tạm bỏ thói „á khẩu“ để nói, dù chỉ một câu cho trôi chẩy mà không biết mười mươi rằng: Những gì chúng nói ra, nếu không có đảng cs vn canh chừng bằng họng súng, thì chúng lấy chỗ nào để đứng mà nói. Nếu có thì phải „độn thổ“ ngay sau khi nói, nếu không muốn bị đồng bào Việt Nam khắp nơi trên thế giới đồng thời vả vào mồm chúng sau mỗi một câu chúng nói ra.
Vì lực lượng „bảo kê“ của đảng cs vn vẫn kè kè bên cạnh, nên Thích Quảng Độ chẳng những giám liều chết dại mồm xảo ngữ kinh niên, mà còn thi thoảng chế tác ra lời kêu gọi: „Bất tuân dân sự“, “Biểu tình tại gia“. Theo đó mỗi người Việt Nam muốn thể hiện sự chống đối xin hãy „ở nhà, đóng cửa và làm việc đó ở trong chăn cho kín đáo“. Bởi vậy, tên Thích Quảng Độ vẫn thường phải khoa chân múa tay che miệng nhỡ ăn phải vả, khó toàn bộ răng tuổi già là vì thế, vì ngày „độn thổ“ của hắn đã hết hạn từ lâu.
KP
Kader und UBCV Oberhaupt „Patriarch“ Thich Quang Do (geb. Dang Phuc Tue)
77. „Văn phòng 2“ của tên Việt gian tay
sai cộng sản Võ Văn Ái như vậy, không những là „cái loa“ mà hơn thế, còn là một
thứ „Phòng Nhì“ của đảng Việt gian cộng sản tại nước ngoài. Những cơ sở „đại diện“
trá hình của đảng cộng sản vn tại nước ngoài trong thời đại thông tin toàn cầu
hiện nay, trên thưc tế đã được cài đặt rộng hơn chứ không chỉ giới hạn vào
GHPGVNTN. Từ những ngày „chiến tranh Việt Nam“ đã có đài BBC, hiện nay càng
thêm nhiều đài khác như VOA, RFI, RFA, SBTN vào cuộc…
Trong „Ban tiếng Việt“ của các đài trên đều có ít nhất là một tên cho đến cả một đám những cán bộ do đảng cs vn đào tạo gửi đi cài cắm chiếm giữ. Qua những cái „ống nhổ biết nói“ này đảng cộng sản vn có thể tùy thời rêu rao phát tán những “nghị quyết“ sặc mùi tuyên truyền một chiều của đảng cs vn ra nước ngoài, khi cần thiết thì phun nhả những tin tức độc tố bệnh hoạn, tùy theo những nhu cầu giai đoạn có lợi cho đảng Việt gian cs, tất nhiên tất cả các bản tin đều được viết nói bằng một thứ giọng điệu xảo ngữ chuyên nghiệp. Trên lĩnh vực báo chí in ấn cũng tương tự, và tác dụng độc hại của nó cũng không kém báo điện tử là bao.
Tại Việt Nam hiện nay dưới sự đàn áp khống chế gắt gao của đảng cs vn trong lĩnh vực truyền thông, tất cả (hơn 600) các cơ sở truyền thông, đài, báo chí tại Việt Nam cùng các vệ tinh trá hình của nó tại nước ngoài chỉ còn là nơi phát tán các „nghị quyết“ lật lọng lừa đảo của đảng cộng sản Việt nam bằng những giọng điệu xảo trá khác nhau. Quyền được nói lên sự thật của nhân dân trong nước đã bị đảng Việt gian cộng sản bóp cổ chặn họng chết từ lâu. Như vậy, GHPGVNTN và các „văn phòng, chi nhánh đại diện“ của nó tại hải ngoại, như Võ Văn Ái, Thích Nhất Hạnh và đồng bọn thật là những cấu thành quan yếu trong cấu trúc „mạng nhện đỏ“ độc hại đã được giăng ra từ hàng chục năm qua để phục vụ cho những mưu đồ của đảng Việt gian cộng sản và đảng cộng sản…Tầu.
78. Tên tiếng Anh của „Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam Thống Nhất“ là “Unified Buddhist Church of Vietnam“ („UBCV“) đã được Thích
Như Điển và tay sai dịch sang tiếng Đức: (viết tắt là: CVBK hoặc KVVBK: "Congregation der Vereinigten Vietnamesischen Buddhistischen
Kirche". Sẽ trở lại phần chi tiết về danh xưng nói trên trong phần 2,
sau bài viết này). Như trên đã dẫn, GHPGVNTN tại hải ngoại được „đại diện“ và
giật dây bởi „Văn phòng 2, Viện hóa đạo“. Các tên cầm đầu từng là những Thích Đôn Hậu
(Diệp Trương Thuần), Thích Huyền Quang (Lê Đình Nhàn), hiện nay là Thích Quang
Độ ( Đặng Phúc Tuệ), Thích Hộ Giác, Thích Chánh Lạc... những tên Việt gian cộng sản trá hình hạng rành nghề xảo
quyệt trong lớp áo tăng sỹ Phật giáo.
Danh xưng „tăng thống“ và „ấn tín“ của lũ cộng sản trá hình Phật giáo này đang tiếm quyền sử dụng, là do những hành động khủng bố bạo lực cưỡng đoạt từ tay Thượng tọa Thích Tâm Châu từ năm 1966. Vị tăng thống tiền nhiệm chính thống trước đó là cố đại lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết. Bằng con dao và đĩa máu cùng những hành động đe dọa sát hại tính mạng của lũ cán binh cộng sản trá hình tăng sỹ Phật giáo này, chúng đã cướp đoạt văn phòng trụ sở, ấn tín từ tay Thượng tọa Thích Tâm Châu. Cho nên từ năm 1966 đến nay (năm 2012), lũ „tăng thống“ tự phong này chỉ là những tên Việt gian cộng sản ăn cướp đầy tội ác, tiếm quyền, tiếm danh, trá hình trong lớp áo cà sa Phật giáo. Phần chi tiết, xin xem tham khảo „Bạch thư của Hòa thượng Thích Tâm Châu“.
Hòa thượng Thích Tâm Châu đã tự nói
lên sự thật sau gần 30 năm im lặng (1964 – 1993). Trong bạch thư nói trên ông
đã bạch hóa sự việc một cách cụ thể, cho thấy những thủ đoạn tàn bạo của đám
cán bộ Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo đã từng cướp Viện Hóa Đạo như thế
nào. Cũng theo bạch thư đã khẳng định, những tội ác mà đảng cộng sản vn và
GHPGVNTN gây ra là những sự thật hết còn có thể chối tội, và cho thấy các truyền
thống tâm linh đặc biệt là Phật giáo đều bị đảng Việt gian cộng sản thâm nhập,
cướp đoạt và khiển dụng làm vỏ bọc ngụy trang như những phương tiện gây ra và
che giấu tội ác, củng cố quyền lực.
79. Từ những năm 1963 khi nước Mỹ dưới thời
tổng thống John Fitzgerald Kennedy, qua tay ngoại trưởng Henry Alfred Kissinger
muốn lật đổ tổng thống Ngô Đình Diệm, đặc biệt là sau khi „canh bạc hậu trường“
giữa Mỹ và Tầu cộng đã ngã ngũ, thì từ đó đến nay là năm 2012, giới truyền
thông tại phương Tây đại đa phần đã ngả hẳn theo hướng thông tin gần như một
chiều về cuộc chiến tranh tại Việt Nam, theo chiều hướng dường như có lợi cho „khối cộng sản“. Nhưng, một phần của thực tại
không thể là bản thân sự thật ! Vì họ đã im lặng dường như đồng loạt và có hệ
thống về cái thực tại và cũng là sự thật về thực chất của cuộc chiến tranh do đảng
cộng sản Việt Nam phát động, chỉ huy quân đội cộng sản từ Bắc-Việt, chống lại Quốc
gia Việt Nam Cộng Hòa: Là một cuộc chiến tranh xâm lăng đầy tội ác, đã được thực
thi bởi một đội quân cộng sản Bắc-Việt xâm lược, đánh thuê theo sự giật dây, đặt
hàng hứa hẹn của các quan thầy chúng là quốc tế cộng sản từ Moskau và Bắc Kinh.
Và cuộc chiến tranh xâm lược này đã vi phạm một cách trắng trợn luật pháp của tất
cả các Công ước, và Hiệp định quốc tế hiện hành.
80. Đại đa số giới truyền thông phương
Tây cũng làm ngơ những thực tại lịch sử
là tập đoàn cộng sản Bắc-Việt đứng đầu là đảng Việt gian cộng sản đã phá rối và
chưa từng chấp hành đúng nghĩa theo những Hiệp định hoặc cam kết quốc tế nào mà
chúng đã từng ký kết. Những Hiệp định, cam kết mà ngay từ đầu chúng đã chỉ ký kết
với một dụng ý duy nhất là có thể dùng nó để lừa đảo dư luận quốc tế. Đại đa số giới truyền thông tại các nước phương
Tây không những dường như đồng loạt câm lặng mà đồng thời tìm cách che đậy, giảm
thiểu cho đến vô hại hóa những tội ác bẩn thỉu man rợ của đảng Việt gian cộng sản
đối với nhân dân Việt Nam.
Cũng như vậy, những tài liệu bình luận, những bằng chứng có giá trị lịch sử trung thực về những nỗi đau cùng tột, những tang thương mất mát của nhân dân miền Bắc từ năm 1946, và cả dân tộc Việt Nam từ 30.04.1975 đến ngày hôm nay, nỗi đau của một dân tộc đã bị đảng vgcs bóp chết sau bức tường sắt ghê rợn được sơn trét lòe loẹt kia, rất ít khi được giới truyền thông này cho quảng bá rộng rãi một cách tương xứng trên các phương tiện thông tin đại chúng. Cái „hiện tượng“ này cũng đang là một hiện trạng mỉa mai nghiệt ngã, lặp lại dường như tương tự, như đối với những trường hợp tiêu biểu là dân tộc Tây Tạng, Bắc-Triều Tiên hoặc Miến Điện (Tibet, Nord-Korea, Mianma hoặc Burma).
Rõ ràng là các giới truyền thông có tên „Truyền thông dòng chính“ ("Main Streem Medien") tại các nước phương Tây này đang theo nhịp gậy của một tay nhạc trưởng lão luyện, cùng hòa nhịp trong một dàn đồng ca giao hưởng quen thuộc, mà các „cung điệu“ của nó đã, đang và sẽ ảnh hưởng có tính quyết định các mối quan hệ chính trị thế giới. „Thể loại chính trị“ này, hiện đang có một tên gọi thực tiễn như bản chất của nó: „Chính trị thực tiễn“. Từ „thực tiễn“ đến…„thực dụng“ là những đề tài khác, nằm ngoài phạm vi bài viết này.
81. Đối với tất cả đồng bào Việt Nam chân
chính thì cuộc „chiến tranh Việt Nam“ vừa qua chưa hề kết thúc ! Vì qua cuộc
chiến tranh này, họ đã bị cướp trắng tay và mất đi tất cả. Như những „công dân
hạng ba“, nói cho chính xác, chỉ là những nô lệ tân thời, mặc dù đang sống trên
chính mảnh đất cha ông để lại, nhưng tất cả những quyền tự do căn bản và quyền
sở hữu để sống trên mảnh đất đó, thì tuyệt nhiên đã bị đảng Việt gian cộng sản cướp
trắng.
Chỉ có mỗi một thứ „quyền“ tối thiểu nhất, đã thuộc về huyết thống tâm linh ngàn đời sâu thẳm của người dân Việt Nam, đó là quyền được yêu Tổ Quốc, mà còn bị đảng Việt gian cộng sản, là kẻ cai trị độc tài, lưu manh độc nhất vô nhị, lật lọng cướp trắng. Sự ăn cướp trấn lột trên được che đậy bằng những loại giọng điệu cai ngục, được che chắn bằng họng súng và nhà tù như sau: “Đảng cộng sản Việt Nam thay mặt nhân dân lãnh đạo Dân tộc và Tổ Quốc. Ai yêu Tổ Quốc, Dân tộc nhưng không yêu đảng là phản bội Dân tộc và Tổ Quốc“ . Những loại danh từ mà đảng Việt gian cộng sản dùng tới để đe dọa tẩy não nhân dân như „phản động“, hoặc „các thế lực thù địch quốc tế“ dài… vô tận.
Vào thời điểm hiện nay, khi nghe những giọng điệu trên đây, thì có rất đông những người phương Tây vì đã từ lâu sống trong thế giới tự do, cũng đều phải đỏ tai tía mặt, mặc dù biết đó là sự thật. Và khốn nạn thay, đó lại đang là sự thật hiển nhiên tại nước Việt Nam cộng sản Xã hội chủ nghĩa hôm nay. Vì phần đông những người phương Tây này, xin nói thêm là cả những người Việt Nam, hoặc bị đảng Việt gian cộng sản che đậy tẩy não, hoặc vì nhiều lý do khác nhau…không cần biết sự thật, khi được hỏi về cái mặt trái mà cũng là cái bản mặt thật của đảng Việt gian cộng sản, GHPGVNTN, Thích Nhất Hạnh và đồng bọn, tay sai và nhiều nhiều nữa…, thì câu trả lời của họ chỉ là những âm thanh ú ớ nghe không rõ, nên đã thể hiện một cách rất tự nhiên bằng một cái nhún vai đầy… ấn tượng, ý nói là họ chẳng biết gì cả.
Không hiếm trường hợp có người gân cổ độc thoại, nhắc lại y chang những „nghị quyết„ của đảng cs mà giới truyền thông, văn bút trí nô tay sai của đảng Việt gian cộng sản trong nước và hải ngoại đã từng rêu rao từ hàng chục năm qua. Những giọng điệu giả nhân giả nghĩa đã được che đậy bằng loại xảo ngữ tuyên truyền chuyên nghiệp, bóng bẩy bất tận.
Mới chỉ đơn cử một cái „quyền tự do yêu Tổ Quốc“ đã bị cướp trắng như thế, thì những quyền khác còn đâu một chỗ đứng, lấy gì đâu nữa nói tự do?
82. Chừng nào còn một nhóm người, một cá
nhân, coi chiến tranh, bất ổn định và sự chưa thống nhất của một dân tộc một quốc
gia là một cơ hội, để lợi dụng và qua đó nắm đoạt được những lợi thế tài chính lớn
hơn nữa để tiếp tục thủ lợi nhiều hơn nữa, thì chừng đó, tất cả những món lợi tức mà họ thu được,
không chừa một thứ gì, không gì giữ được, mỗi mỗi đều theo nhau biến thành những
món nợ khó trả. Vì để có thể riêng hưởng những món lợi tức loại này chỉ có thể
là những kẻ, những tập đoàn cai trị độc tài lật lọng phản trắc, và đứng sau
lưng hết thảy là những kẻ thống trị tài phiệt lợi dụng tất cả những kẻ đi lợi dụng
kia. Ai ủng hộ chúng, cuối cùng chỉ để những kẻ độc tài kia được lợi, không phải
là những người dân bị trị. Cho nên, tất cả những nhóm người này đang cố giả tạo
ra một thứ "hòa bình", và không muốn cho nó có một nền tảng vững chắc, vì nếu có
hòa bình thực sự, họ chẳng còn gì đề thủ lợi.
Cũng vì vậy, những cá nhân này, những nhóm người này, thực sự là những người không thể hiểu biệt nghiệp quả báo của chính họ, nói gì đến cộng nghiệp quả báo của dân tộc họ. Cho nên, đã chằng có thể thực sự hiểu chính bản thân, nói gì là người bên cạnh, huống gì lại có thể hiểu được một dân tộc khác.
Vì tất cả những hệ quả trên, tất cả những
gì họ đang tạo dựng vun vào, dành giụm cất chứa cho đàn con cháu của họ hôm nay, thì cũng
chính đám con cháu này lại phải đem nộp trả lại hết trong một ngày gần, trước
sau không có hạn định, cũng không có ngoại lệ, để trả nợ cho bằng hết cho sự u
muội vô minh của cha ông chúng, trả cho đến tận xu cuối cùng, lãi xuất hậu bàn.
Tại Việt Nam, hay bất kỳ đâu trên thế giới, những người chân tu có đạo hạnh trong Phật giáo, đều đã và sẽ được tất cả các tầng lớp nhân dân dành cho sự tôn kính vô cùng xứng đáng. Nhưng, những tên Việt gian cộng sản trá hình Phật giáo như Thích Nhất Hạnh, Thích Quảng Độ cùng tập đoàn GHPGVNTN, và tất cả bè lũ tay sai, còn sống cũng như đã chết, là một bè lũ Việt gian, thì nhân dân Việt Nam sẽ phải vạch mặt chỉ tên chúng, để trong một ngày gần nhất, phải dẫn giải chúng ra trước tòa án quốc dân, của một đất nước Việt Nam mới, thực sự dân chủ và tự do. Và cái ngày tàn xụp đổ của đảng cộng sản vn, một tập đoàn Việt gian, vẫn đang được đếm từng ngày...
Thái A
***
Sẽ tiếp nối Phần 2 (nguyên bản tiếng Đức)
***
***