Freitag, 29. Juni 2012

BÀI 4: NHỮNG TÊN ĐẶC CÔNG ĐỎ :“ QUÊN QUÁ KHỨ“

LT:Trích trong sách và loạt bài viết :“Những tên đặc công đỏ trong phong trào đòi hỏi dân chủ cho Việt Nam“, của tác giả nhà báo Việt Thường, vạch mặt tên tội phạm đặc công đỏ Việt gian cộng sản Bùi Tín và những tên Việt gian giả danh đội lốt Cộng sản và lũ tay sai theo lệnh của gian đảng VGCS giàn dựng màn kịch đòi hỏi đấu tranh dân chủ…cuội đểu giả.
Theo nguồn: nhabaovietthuong.blogspot.com
Vietnam - Buddhist


Bài 4: "Quên Quá Khứ".
Thưa ông Bùi Tín,

 
   Là một nhà báo có quyền, ông đã được chứng kiến tận mắt nhiều sự việc nên ông đã viết về cái "huyền thoại" giải phóng dân tộc đó trong "Hoa xuyên tuyết" như sau: "Cuộc chiến tranh đã hao phí hàng triệu sinh linh, đều là con em đất Việt, đồng bào ruột thịt cả. Để làm gì? Để đến nỗi này chăng? Nói là giải phóng đất nước, giải phóng đồng bào, mà sao hàng trăm nghìn người lại phải vào ngồi tù trong các trại tập trung cải tạo, kéo dài hàng trăm, hàng ngàn ngày, với biết bao tủi cực và khổ đau. Nhân danh lẽ phải? Nhân danh lẽ công bằng? Nhân danh cách mạng? Tôi chẳng sao lý giải nổi nữa! Và cách mạng, hy sinh, chiến đấu để làm gì? Để sau toàn thắng, cuộc sống của nhân dân ta còn lầm than, bi đát hơn cả thời chiến tranh, để Nguyễn Du sống lại sẽ còn phải khóc cho thân phận hàng chục vạn nàng kiều hiện đại, đang nhan nhãn trên các hè phố Hà-nội, Sài-gòn khi nắng chiều vừa tắt."(38)
   Đọc những dòng trên, người Việt lương thiện nào cũng đau sót, tê tái trong lòng. Vậy mà ông, tác giả của những dòng đó, lại có thể viết lời thương tiếc Trần Độ khi hắn chết!!! Trong suốt 15 năm dài, Trần Độ đã cổ võ, chứng kiến cuộc chém giết đẫm máu của những người mà ông gọi là "con em đất Việt, đồng bào ruột thịt cả", vậy mà hắn chẳng những không thấy lương tâm cắn dứt mà còn tự hào về thành tích uống máu "con em đất Việt". Cho đến chết Trần Độ vẫn chưa một lời ăn năn, hối hận với các nạn nhân. Không những thế, Trần Độ còn vênh váo, tự hào là "siêu công dân", "công dân loại 1" ngay trước khi chết! Ông lý giải cách nào để có thể nhìn nhận một tên sát nhân từ răng tới tóc như thế là "đấu tranh cho dân chủ"?
   Một số người, u mê hoặc cố tình u mê nào đó, cho rằng Trần Độ là tác giả của nghị quyết 5 - cởi trói cho văn nghệ sỹ - nên phù phép cho sát thủ chuyên nghiệp Trần Độ thành "anh hùng đấu tranh cho dân chủ của Việt Nam". Là một nhà báo, là một đảng viên cộng sản có 47 năm tuổi đảng, chắc chắn ông không tin điều đó. Vậy tại sao ông lại "mũ ni che tai"? Ông thừa biết cơ cấu tổ chức của đảng cộng sản là chẳng có ủy viên trung ương nào là tác giả của một nghị quyết trung ương. Một nghị quyết T.Ư. nào đó về một chính sách nhất định là dựa trên cơ sở Nghị quyết của đại hội đảng. Đề xuất cho ra đời một nghị quyết T.Ư., phải là ủy viên bộ chính trị phụ trách bộ môn mà nghị quyết T.Ư. đề cập đến. Tập hợp của những kẻ độc quyền đề ra đường lối, chính sách gọi là"bộ chính trị". Đó là lý do sự ra đời và tồn tại của cái gọi là "bộ chính trị".
   Cho nên cái nghị quyết 5 (mà Trần Độ mạo nhận là tác giả) được ra đời dựa trên cơ sở Nghị quyết đại hội đảng về "mở cửa" và "đổi mới" của thời Nguyễn văn Linh là tổng bí thư. Trần Độ là ủy viên trung ương, phụ trách văn hóa - tư tưởng, qua đường lối "đổi mới" nên được cho qua Nga-xô học tập về "công tác quản lý văn hóa - tư tưởng". Học tập về, Trần Độ được Nguyễn văn Linh sai làm đề cương về vấn đề "văn hóa - tư tưởng". Bản đề cương đó là ý kiến của nhà văn Nguyên Ngọc (cùng đi học ở Nga với Trần Độ), được Trần Độ "cóp-pi", được cả Đỗ Mười (khi đó là thường trực ban bí thư) lẫn Nguyễn văn Linh góp ý, sau khi Nguyễn văn Linh giành 2 ngày họp với văn nghệ sỹ để nghe các ý kiến đề xuất. Bởi vậy, nếu nói đến tác giả của nghị quyết 5 thì phải nói đó là Nguyễn văn Linh.
   Bởi vì, ngay sau khi Nguyễn văn Linh rời chức trưởng ban dân vận trung ương và ủy viên bộ chính trị để về lại Sài-gòn nắm chức bí thư thành ủy Sài-gòn, thì từ Sàigòn đã có một số thay đổi về quản lý kinh tế và sử dụng văn nghệ sỹ. Cụ thể là, nhà nghiên cứu âm nhạc học từ Nga-xô về, là giáo sư Ca lê Thuần (con giáo sư Ca văn Thỉnh) được đưa vào thành ủy, phụ trách văn hóa – văn nghệ của Sài-gòn. Một nhà văn ở ngoài Bắc còn nằm trong ẩn số là Nguyễn mạnh Tuấn, được Nguyễn văn Linh chống lưng, nên cho ra đời cuốn đầu tay, mang tên "Đứng trước biển". Nội dung sách phê phán quan điểm bảo thủ, tư duy cằn cỗi trong quản lý sản xuất, nằm trong não trạng của tất cả các cấp, trừ "đồng chí bí thư thành ủy" là sáng suốt! Và về kinh tế thì, hiện tượng Ba Thi - giám đốc cửa hàng lương thực Sài-gòn - được "ô dù" và "đề cao", đến mức xóa sổ luôn Sở lương thực thành phố. Và Ba Thi thì vượt ra ngoài phạm vi lương thực để buôn cả xăng dầu v.v… Kể từ đó, Nguyễn văn Linh bắt đầu "ghiền" được tán tụng bằng văn chương và chú ý đến văn nghệ sỹ. Cho nên khi nắm chức tổng bí thư, Nguyễn văn Linh, là tổng bí thư đảng cộng đầu tiên, chịu ngồi 2 ngày liền lắng nghe ý kiến của văn nghệ sỹ mà chỉ chiếm có 50 phút để phát biểu ý kiến cá nhân. Nghị quyết 5 được bộ chính trị thông qua là như vậy!
   Trong một cuộc trả lời phỏng vấn của đài á châu tự do, Trần Độ có nói đến việc "anh Nguyễn văn Linh hiểu lầm tôi, anh ấy giận tôi", nhưng Trần Độ né nói nguyên nhân. Cái nguyên nhân ấy chính là Trần Độ vốn hay ba hoa, đi đâu cũng cứ nói láo rằng mình là tác giả của nghị quyết 5. Vì thế mà Nguyễn văn Linh khinh thường và ghét Trần Độ. Nhân "mở cửa" không ổn, tập đoàn Nguyễn văn Linh "đóng cửa" lại, Nguyễn văn Linh cho dẹp nghị quyết 5 và cho anh chàng "ba phét" Trần Độ "ngồi chơi sơi nước". Ỷ mình là công thần bị bạc đãi, Trần Độ bật lò xo. Sự việc được tô màu là đấu tranh cho dân chủ!!!
 
   Giờ thử xét lại nội dung "đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam" của Trần Độ là gì?
 
   Cái gọi là nghị quyết 5 mà Trần Độ nhận vơ là tác giả, và có thể rất nhiều kẻ, chỉ biết cái tên "nghị quyết 5" chứ chưa chắc đã đọc và hiểu nội dung của nó, nhưng vẫn lớn lối bàn láo!!!
   Trước khi có nghị quyết 5 thì văn nghệ sỹ, trí thức ở Việt Nam bị coi "không bằng cục phân", thân phận văn nghệ sỹ, trí thức vẫn là nô lệ của đảng cộng sản, tùy tiện sử dụng theo hứng. Đến khi nghị quyết 5 ra đời, thì nội dung của nó vẫn khẳng định đảng phải lãnh đạo công tác văn hóa tư tưởng mà văn nghệ sỹ, trí thức vẫn chỉ là công cụ của đảng.
   Cái mới của nghị quyết 5 là dựa vào đường lối "mở cửa", "đổi mới", để đổi mới cách quản lý công tác văn hóa – tư tưởng và đổi mới cách quản lý lực lượng văn nghệ sỹ trí thức, nhằm khai thác có hiệu quả hơn cho sự độc quyền đảng trị.
   Nghĩa là nội dung nghị quyết 5 đặt vấn đề tạo điều kiện thuận lợi hơn cho văn nghệ sỹ trong sáng tác. Nhưng thân phận văn nghệ sỹ vẫn phải chịu sự lãnh đạo của đảng (như con chó vẫn bị xích cổ vậy)!!!
   Vẫn còn dưới sự lãnh đạo của đảng thì dân chủ ở chỗ nào? (xin quý vị thầy bói sờ voi trả lời cho!) Đã thế còn dưới sự lãnh đạo của một tên học chưa qua bậc 2 phổ thông như Trần Độ!!
   Đấy là về cái gọi là nghị quyết 5.
 
   Còn những điều Trần Độ nói và bàn thì chẳng có điều gì mới lạ hơn những tụi cầm quyền trong tổ chức Việt gian cộng sản đã, đang và vẫn tiếp tục nói. Xin tham khảo sự so sánh qua bài của ông Đại Dương, có tên "Thưa chuyện với ông Phạm thanh Chương." (Tạp chí Người Dân, số 148, 12-2002 - Costa Mesa - CA. USA)
   Là một trong những người chủ chốt gây ra cảnh tàn sát nhân dân Việt Nam Cộng Hòa, đẩy những nam nữ thanh niên miền Bắc Việt Nam vào lò lửa chiến tranh vì chiến lược bá chủ toàn cầu của đế quốc đỏ Nga-Tàu, Trần Độ chưa từng chảy một giọt nước mắt hối hận.
   Là một người được cho làm ủy viên trung ương đảng cộng bằng chỉ định trước, liên tục 5 khóa liền, không hề thấy Trần Độ biết xấu hổ vì cái không có dân chủ đó. Cho đến tận lúc Trần Độ "đang hí hửng" với cái nghị quyết 5, thì Trần Độ vẫn chưa mở mắt để thắc mắc tại sao ban bí thư chỉ định Nguyên Ngọc làm "bí thư đảng đoàn" văn hóa văn nghệ, mà không có bầu bán. Nghĩa là trong đầu Trần Độ hoàn toàn không có khái niệm dân chủ (như mấy anh "thầy bói sờ voi" đoán mò).
   Trần Độ cho đến chết vẫn tự hào về thành tích làm tay sai cho Nga-xô, Tàu cộng xâm lược, chém giết, tàn phá Việt Nam Cộng Hòa; tự hào được tên đại Việt gian Hồ chí Minh khen thưởng; sau khi bị đồng bọn "đá đít" ra khỏi trung ương thì giọng lưỡi Chí Phèo đã thốt ra rằng vẫn là "siêu công dân", "công dân loại một"!!!
   Trần Độ có thể viết kể lể về việc bốc mộ cho bà chị, nhưng lại không thể có tuyên bố về việc tập đoàn Việt gian Lê khả phiêu, Nông đức Mạnh dâng đất, dâng biển cho Tàu cộng; có thể đi từ Hà-nội vào Sài-gòn thăm con và tuyên bố nhăng nhít đánh bóng cho bản thân và lũ gia nô mới, nhưng lại không thể về thăm quê ở Thái Bình để tìm hiểu, ủng hộ nhân dân Thái Bình đòi dân chủ và công lý!!!
   Trần Độ đặt vấn đề về dân chủ không liên tục và mạnh mẽ như bọn cầm quyền. Và điểm giống nhau một cách tuyệt đối giữa Trần Độ và bọn cầm quyền là nguyên nhân không thể nào xây dựng dân chủ được ở Việt Nam chính là tập đoàn Việt gian cộng sản đề cao tư tưởng Hồ chí Minh và vẫn độc quyền nắm giữ lực lượng vũ trang và công an, tòa án là phạm vi vẫn bị tránh né đề cập đến.
   Trần Độ và Trần Khuê là hai kẻ bổ sung cho nhau, nhằm thần tượng hóa Hồ chí Minh. Trần Khuê có học hơn Trần Độ nên "láu vặt", luôn luôn nịnh "đồng chí tổng bí thư". Chỉ tiếc cho Trần Khuê "tự mình răng cắn phải môi"; nịnh Đỗ Mười, mép còn chưa khô nước miếng thì Đỗ Mười đổ, Phiêu thay; lại lên dây cót lưỡi nịnh Lê khả Phiêu, còn đang ca vọng cổ chưa kịp xuống xề thì Phiêu lại kềnh và Nông đức Mạnh thay thế!!!
   Tập đoàn Việt gian cộng sản đương quyền lấy tư tưởng Hồ chí Minh làm kim chỉ Nam.
   Trần Độ cũng quyết noi theo con đường của Hồ chí Minh, nghĩa là coi việc tập đoàn Việt gian cộng sản nắm quyền cai trị là đương nhiên đúng như vậy, là tất nhiên phải như vậy. Cái mô hình "dân chủ đa đảng" trong đầu Trần Độ cũng giống như của Hồ, nghĩa là có vài đảng vệ tinh như kiểu Dân chủ và Xã hội xưa kia, để rồi cài đảng viên cộng sản vào lãnh đạo giúp cho thêm thắm thiết tình đoàn kết. Thí dụ như đảng viên cộng sản Hoàng minh Chính từng làm tổng thư ký đảng Dân chủ, và các bọn khác như Nguyễn thành Lê, Cù huy Cận, Phạm Hồng, Nguyễn việt Nam v.v. làm ủy viên trung ương của đảng Dân chủ. (Nguyễn thành Lê sau là ủy viên trung ương đảng cộng, phụ trách trưởng ban đối ngoại trung ương; Cù huy Cận là ủy viên thường vụ đảng đoàn cộng sản của bộ văn hóa thông tin; Phạm Hồng sau giữ ghế phó chủ nhiệm ủy ban liên lạc văn hóa với nước ngoài kiêm bí thư đảng đoàn cộng sản; Nguyễn việt Nam sau 4-1975 vào Sài-gòn là ủy viên thành ủy cộng sản kiêm chủ tịch hội đồng nhân dân thành phố Sài-gòn; còn Hoàng minh Chính xin đi Nga-xô học và về là Viện trưởng Viện triết học Marx-Lê).
   Sau khi bị đá đít ra khỏi quyền lực, sự đấu tranh của Trần Độ chỉ là chống cách thức lãnh đạo của tụi đá đít Trần Độ, vì Trần Độ cho rằng như thế sẽ làm hại uy tín của đảng cộng. Nghĩa là Trần Độ muốn được có quyền lực trở lại để giữ uy tín cho đảng cộng bằng cái mô hình xã hội chủ nghĩa na ná như của Đặng tiểu Bình (chắc là không dùng xe tăng đè chết những người đòi tự do dân chủ như Đặng đã làm ở Thiên-an-môn, mà sẽ dùng xe lu (xe lăn đường) đè chết cho nhuyễn xương thịt với nhau hơn!!!). Một tên tướng quân phiệt, tắm máu dân trong suốt 57 năm, lại có thể "ngộ" về dân chủ?! Nói vậy chẳng khác nào "tú Bà" của Nguyễn Du về già "hoàn lương" (bằng tuyên bố mà thôi)!!!
   Trần Khuê thì ca ngợi Hồ chí Minh, nâng lên thành chủ nghĩa.
   Cả ba đều thờ chung "một thần" là Hồ, cùng là đồng đạo, đạo hữu cả, cho nên cả bọn chúng đều có quan niệm về dân chủ y hệt nhau, nghĩa là dân chủ cuội!!!
   Chỗ khác nhau là Trần Độ bị đá ra khỏi quyền lực, Trần Khuê đang mê tiếng tăm và quyền lực. Có thế thôi!!! Còn nếu Trần Độ vẫn có quyền lực, Trần Khuê được chia sẻ quyền lực thì bọn chúng chẳng bao giờ chống nhau mà "úm ba la, ba ta đoàn kết"!
   Bây giờ xin chuyển qua một nhân vật "đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam" nữa, từng được vài anh chàng thầy bói sờ voi ở hải ngoại cung kính nâng lên là "chí sĩ", là "đại trí tuệ"!!! Đó là tiến sỹ Nguyễn thanh Giang.
   Đây là một thứ tiến sỹ, trí thức điển hình trong lò nướng Ba-đình mà ra: tham vọng lộ liễu; thích "thấy sang bắt quàng làm họ"; đường lối "đầu voi đuôi chuột"; tư duy sôi thịt tiên chỉ đình làng" và v.v.
   Cái tham vọng, khoe khoang lộ liễu của Nguyễn thanh Giang là ở chỗ chẳng biết phân biệt thời điểm, chỗ nào cũng nói đến cái tôi một cách lố bịch, chẳng biết ngượng ngập là gì! Hết khoe là bạn của Trần đức Lương, lại là bạn của Trần Độ. Nào là "góp ý" cho Trần Độ chôn xác ở quê Thái-bình, đừng thèm để chôn ở Mai-dịch. Khi viết về Lê chí Quang thì ngay đầu dòng đã khoe là tự Lê chí Quang đến xin được làm quen. Chuyện này chẳng ăn nhập gì với việc phản đối vụ bắt Lê chí Quang. Rồi y như trong một cuộc họp tổ công đoàn cơ quan, ở ngoài Bắc trước đây, để bình bàn xem ai được mua "quần đùi" hay "áo may-ô" phân phối, Nguyễn thanh Giang khoe đủ thứ nào lao động tiên tiến, chiến sỹ thi đua, thậm chí cả việc cơ sở đề nghị phong anh hùng (xin chú ý là mới đề nghị chứ chưa được chấp nhận; và nếu như có được chấp nhận thì cũng qua vài cấp nữa thanh lọc. Thông thường cả chục ngàn trường hợp mới có một trường hợp được duyệt là chiến sĩ thi đua toàn quốc mà thôi. Còn anh hùng thì khó hơn sổ số giải jackpot rollover). Ấy thế mà cũng khoe "cái chưa thể có được"!!! Háo danh đến lẩm cẩm u mê như vậy thì làm sao chân thành đấu tranh cho dân chủ được!!! Xin được trích lại ý kiến của ông Bùi Tín (mà có thể nói là của hầu hết những người còn nhân phẩm, dù chỉ là quét rác, bán rau chứ chẳng cần phải có bằng tiến sỹ) về cái "trò khỉ" đó như sau:
 
   "Ai cũng cho việc bình bầu tiên tiến và ưu tú là hình thức đến mức nhảm nhí, nhưng nó vẫn tồn tại bền bỉ. Vì ở mọi nơi, trong thời đại mới này, đã có quy ước ngầm là làm cho xong chuyện; và thế là cả làng đều là tiên tiến hết, 100 phần 100 tiên tiến là chuyện bình thường!"(39)
 
   Ai cũng biết Trường Chinh là Mao-ít trăm phần trăm, cả từ tên cho đến tư duy; là kẻ chịu trách nhiệm về "cải cách ruộng đất", "chấn chỉnh tổ chức", "đánh nhân văn - giai phẩm", "cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh", "hợp tác hóa ở nông thôn"; là kẻ soạn nghị quyết 9 (khóa 3) thân Tàu cộng; là kẻ đánh cho Kim Ngọc (bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phú) về tội "khoán sản phẩm đến các hộ nông dân"; là kẻ cách chức bộ trưởng bộ đại học và trung học chuyên nghiệp của giáo sư Tạ quang Bửu vì giáo sư Bửu không chịu "chính sách phân biệt lý lịch" trong thi tuyển vào đại học trong nước và cho đi học nước ngoài; là kẻ ngay 1-5-1975 đã lớn tiếng ra lệnh "miền Nam phải tiến lên chủ nghĩa xã hội" và v.v…, ấy vậy mà khi Trần Quỳnh (trợ lý của Lê Duẩn) viết sách chê bai Trường Chinh thì Nguyễn thanh Giang đã sủa ầm lên là Trần Quỳnh "bôi nhọ đồng chí Trường Chinh". Với cái não trạng này liệu Nguyễn thanh Giang có thể chân thành đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam không?(!!!)
   Về tội ác của tập đoàn Việt gian cộng sản dâng đất, dâng biển cho Tàu cộng, sự việc rành rành như vậy mà Nguyễn thanh Giang "lập lờ" chạy tội cho bọn chúng bằng cách tuyên bố rằng chúng bị lừa!!!(???)
   Cố tình dâng đất và bị lừa để mất đất là hoàn toàn trái ngược với nhau. Cách tuyên bố như vậy của Nguyễn thanh Giang, trẻ em lớp một cũng có thể hiểu được Nguyễn thanh Giang chống hay chống đỡ cho tập đoàn Việt gian cộng sản bán nước! Qua việc này, bộ mặt Nguyễn thanh Giang chống ai, tưởng đã quá rõ.
   Trong bài gửi cho Lê hồng Anh, bộ trưởng mới của Việt gian cộng sản, Nguyễn thanh Giang khoe khoang theo kiểu là đàn anh, là thế hệ trước của Lê hồng Anh. Cũng với cách nhìn đó, khi bốc thơm Trần Độ thì kể nào là Trần Độ đã là tướng thì Lê đức Anh mới là thượng tá và v.v. Lối tư duy tiên chỉ đình làng như vậy thì Nguyễn thanh Giang làm sao hiểu nổi ở Mỹ hiện nay, phó tổng thống Dick Cheney từng là bộ trưởng quốc phòng thời Bush cha, thế mà nay chịu dưới quyền Bush con!
   Hà-nội trước đây, cái tên Nguyễn thanh Giang dường như chẳng có ma nào để ý đến. Người ta thường nhắc đến những nhân vật như Nguyễn đình Tứ, Nguyễn văn Hiệu, Nguyễn văn Đạo, Hoàng Phương, Phan đình Diệu, Vũ đình Cự, Thái văn Trừng, Lương đình Của, Phan huy Lê, Trần quốc Vượng, Thái bá Vân, Từ Chi, Tô ngọc Thanh, Đặng xuân Kỳ, Ca lê Thuần, Vũ hoàng Địch, Phong Hiền, Nguyễn phúc Giác Hải v.v. Đặc biệt với nước ngoài, người ta khen kiến thức uyên bác của giáo sư Từ Chi và nhà phiên dịch Đặng vĩnh Thiên (một số giáo sư trường đại học Yale có qua Việt Nam); khen nhà ngôn ngữ Cao xuân Hạo, khen các bác sỹ Trương công Quyền, Nguyễn tài Thu.
   Chính vì chẳng ai biết đến "cái đuôi" của Trần đức Lương là Nguyễn thanh Giang nên Nguyễn thanh Giang cứ mặc cảm tự ty, chủ động "tự ca ngợi" loạn xà ngầu đến lố bịch!
   Một người háo danh, thấy "sang bắt quàng làm họ", lố bịch đến mức con trai của Trần Độ cũng từ chối không muốn gặp mặt thì làm được cái trò gì trong công cuộc đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam. Những kẻ đó, mà cờ đến tay, gần như chắc chắn sẽ quay cán cờ mà đánh dân rồi và lại lên mặt khoe đủ thứ bà rằn về cái tôi rất đáng ghét!
*****

   Tuy nhiên, nếu loại bỏ những phần tử cơ hội kể trên, quả rằng ở Việt Nam hiện nay có một số nhân vật trẻ tuổi rất có lòng vì nước. Đó là:
 
   1) Lê chí Quang, rất dũng cảm kêu gọi "Cảnh giác Bắc triều". Vì thiếu thông tin, tài liệu trung thực, nên Lê chí Quang có một số quan niệm chưa chính xác. Một khi được tự do nghiên cứu, cập nhật thông tin, tài liệu, chắc chắn con người có nỗi đau và lo cho đất nước như thế sẽ tự điều chỉnh được quan niệm của mình về thực trạng của đất nước trong quá khứ và hiện tại.
   2) Nguyễn vũ Bình, một nhà báo trẻ, dám giẫm lên điều 4 hiến pháp cộng sản 1992, đòi lập một chính đảng. Cũng trong cảnh bị bưng bít và đói thông tin như Lê chí Quang, nên Nguyễn vũ Bình, chưa biết đến lũ "xanh vỏ đỏ lòng", lũ "cò mồi" ở hải ngoại nên còn chưa chín chắn khi tiếp cận thông tin từ ngoài vào. Thí dụ cụ thể như việc khen quyển "Tổ quốc ăn năn" của một thò lò chính trị, táo bón sử liệu!
   3) Phạm hồng Sơn, một trí thức trẻ với đúng nghĩa trí thức (chứ không phải là nhân viên chuyên môn cao cấp), đã sáng suốt khi "lẳng lặng" quảng bá tư tưởng dân chủ. Và, cũng rất dũng cảm biết hậu quả của việc làm đó sẽ ra sao.
   4) Nguyễn khắc Toàn, một thương gia thành công, một người rất khiêm nhường, không ồn ào kiểu thùng rỗng như Nguyễn thanh Giang. Hoạt động giúp những người biểu tình đòi ruộng, đòi đất, chứng tỏ Nguyễn khắc Toàn có nhãn quan chính trị sắc bén, thấy được lực lượng chủ lực đấu tranh dành dân chủ ở Việt Nam hiện nay chính là "cái đám quần chúng nông dân bị bóc lột; cái đám thị dân nghèo khổ, ăn bữa sáng lo bữa tối" ấy mới dám đem thân mình dành lấy quyền sống, quyền làm chủ, chứ không phải như loại Nguyễn thanh Giang, cho con gái đi học nước ngoài, làm việc ở Anh-quốc, đời sống no đủ, ngồi phán nhăng phán cuội để cuối cùng cũng ngoan ngoãn đi bầu cử quốc hội ngụy quyền cộng sản!
   5) Linh mục Nguyễn văn Lý, một người can đảm dấn thân, sáng suốt nhìn rõ bộ mặt Việt gian lưu manh của tập đoàn cộng sản cầm quyền hiện nay.
   Sự đoàn kết của giáo dân ở An-truyền, Nguyệt-biểu là một minh chứng phương pháp vận động quần chúng đứng lên đấu tranh dành quyền tự do dân chủ của linh mục Nguyễn văn Lý rất hiệu quả.
   6) Các vị lãnh đạo tinh thần khác, ngoài các sư sãi và linh mục quốc doanh, cũng là những người đấu tranh không mệt mỏi.
   7) Trong thực tế cũng như về mặt lý luận, lực lượng đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam hiện nay chính là quần chúng lao khổ ở nông thôn, thành thị, miền núi. Vì là nạn nhân cùng cực nhất bởi sự thống trị của tập đoàn Việt gian cộng sản khát máu; bởi sự bóc lột của giai cấp tư sản đỏ câu kết với tư bản ngoại quốc, nên họ là lớp người đã, đang và sẽ đem cả sinh mạng của mình dành lại quyền tư do làm người!
 
  Muốn đấu tranh xây dựng quê hương Việt Nam thành một nước tự do, dân chủ, nhân bản, phồn vinh, theo kịp đà tiến bộ mọi mặt của nhân loại, cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản xâm lược can liên minh hỗ trợ cho nhau đối với những lực lượng kể trên ở quốc nội. Nghĩa là như ông cha ta đã dạy: "Chọn mặt gửi vàng".
 
Quên quá khứ, xóa bỏ hận thù
   Tình trạng Việt Nam hiện nay có thể chia làm 3 thành phần:

   1- Những người Việt Nam ở trong nước hiện vẫn phải chịu sự thống trị độc tài và tàn bạo của đảng Việt gian cộng sản; khoảng 80 triệu;
   2- Cộng đồng người Việt tỵ nạn xâm lược của Việt gian cộng sản đang sinh sống ở nước ngoài; gần 3 triệu;
   3- Đảng Việt gian cộng sản với trên 2 triệu tên.
 
   Âm mưu nhuộm đỏ không chỉ toàn nước Việt Nam, mà gồm cả hai nước láng giềng của Việt Nam là Lào và Căm-bốt, được biểu hiện qua việc ra đời của đảng cộng sản Đông dương từ 1930.
   Âm mưu triệt hạ các thành phần nồng cốt của Việt Nam về mọi mặt từ sản xuất nông nghiệp, công thương nghiệp, tiểu thủ công, quản lý hành chính, văn hóa nghệ thuật, truyền thống dân tộc, giáo dục đào tạo v.v. để dễ dàng bị thôn tính toàn diện cả đất đai, sông biển; cả thân xác và tâm hồn con người bởi đế quốc đỏ Nga-Tàu, núp dưới cái áo chủ nghĩa quốc tế vô sản Marx-Lê, do tập đoàn Việt gian cộng sản thực hiện, bị phơi bày qua cái gọi "Xô-Viết Nghệ tĩnh 1930-31" với khẩu hiệu:
"Trí, phú, địa, hào
Đào tận gốc, trốc tận rễ"

và đảng kỳ của đảng cộng sản Đông dương (12-1951 đổi tên thành đảng Lao động Việt Nam) chính là quốc kỳ của Nga-xô: cờ đỏ, búa liềm màu vàng ở góc trên. Sau này bị lật tẩy nên tập đoàn cầm quyền trong đảng Việt gian cộng sản sửa lại tý chút là cho búa, liềm màu vàng nằm ở giữa cờ đỏ.
   Từ nguyên nhân ra đời của tổ chức đảng, từ đảng kỳ cho đến đường lối chính trị ngay từ phút đầu đã chỉ rõ rằng đảng cộng sản Việt Nam là một tổ chức Việt gian, công cụ bành trướng của đế quốc đỏ Nga-Tàu ra toàn khu vực Đông-nam-á. Danh xưng "mẫu quốc" của chủ nghĩa thực dân châu Âu được tô màu cho hấp dẫn thành "Anh Cả Nga-xô" và "Anh Hai Trung cộng", còn các nước nô lệ đỏ được đội cái tên là "nước bạn".
 
Việt Thường

BÀI 3: NHỮNG TÊN ĐẶC CÔNG ĐỎ : „HÒA GIẢI VÀ HÒA HỢP“

LT: Trích trong sách và loạt bài viết :“Những tên đặc công đỏ trong phong trào đòi hỏi dân chủ cho Việt Nam“, của tác giả nhà báo Việt Thường, vạch mặt tên tội phạm đặc công đỏ Việt gian cộng sản Bùi Tín và những tên Việt gian giả danh đội lốt Cộng sản và lũ tay sai theo lệnh của gian đảng VGCS giàn dựng màn kịch đòi hỏi đấu tranh dân chủ…cuội đểu giả.
.
Theo nguồn: nhabaovietthuong.blogspot.com
Vietnam - Buddhist



BÀI  3: "Hòa giải và hòa hợp"


 
   Trong cuốn "Mặt thật", ông đã để nhiều trang nói về "hòa giải hòa hợp". Cũng từ chỗ đứng đặc biệt của ông, nên về vấn đề này ông đã nhận xét và lý giải xa với thực tế và mâu thuẫn với chính ông nữa.

   Ông đã viết:
"Trong cộng đồng người Việt, cũng có ý kiến cực đoan cho rằng đối với cộng sản, không có vấn đề hòa giải và hòa hợp gì hết, chỉ có vấn đề buộc họ phải rút lui, chỉ có vấn đề họ phải giao quyền (rút lui như thế nào và giao quyền ra sao thì có người không phát biểu rõ được) vì họ là kẻ có tội, phá hại đất nước. Đây là lối nhìn trịch thượng, không thực tế. Còn cần tạo nên nhiều sức ép trong và ngoài nước mạnh mẽ mới có thể ép những người lãnh đạo Đảng Cộng sản chấp nhận bầu cử dân chủ thực sự theo quan điểm đa nguyên.


   Trong cộng đồng người Việt hải ngoại, những người có cách nghĩ cực đoan không nhiều, số này lại giảm đi rõ rệt". (26)
   Khi viết những giòng trên, chúng tôi nhận thấy ngòi bút của ông lại quay về lối mòn của Phó tổng biên tập báo Nhân dân, nghĩa là người nghĩ, nói và viết đúng với lập trường của tập đoàn đầu lãnh Việt gian cộng sản.
   Không cần trích dẫn những tài liệu khác, chỉ cần dựa vào những điều ông đã viết trong hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật", đủ chứng minh tập đoàn Việt gian cộng sản Hồ chí Minh và cái đảng của chúng đã gây bao tội ác và phá hoại đất nước Việt Nam như thế nào. Thế mà ý kiến không chấp nhận chúng, buộc chúng phải rút lui lại bị ông khép cho tội trịch thượng! Trong con mắt của ông thì lũ bán đất, bán biển cho Tàu cộng; giết dân lành; đàn áp tôn giáo; bỏ tù, giết hại những người nói lên chút sự thật, là thượng. Vậy người dân là hạ chăng? Nên không có quyền lật đổ thượng?
   Khi ông cầm bút viết hai tiếng "trịch thượng" thì tự thân hành động đó đồng nghĩa với việc tán thành điều 4 trong Hiến pháp 1992 của cộng sản, giành cho chúng độc quyền là chủ của nhân dân và đất nước Việt Nam, không ai được quyền buộc chúng rút lui. Hành động đó bị ông xếp là "cực đoan", là "trịch thượng". Chữ nghĩa này từ mồm cái loại ít học "bò tót" như Đỗ Mười, Lê khả Phiêu, Lê đức Anh, Chu huy Mân và ngay cả Trần Độ v.v… còn có thể hiểu được. Còn ở miệng ông Bùi Tín, đang kêu gọi "hòa giải hòa hợp", xây dựng dân chủ đa nguyên, thì quả thực chúng tôi không thể hiểu nổi!!!
   Thật "đại mâu thuẫn với bản thân", khi ngòi bút của ông trong "Hoa xuyên tuyết" đã viết rằng: "Mà lãnh đạo thì rất sợ đổi mới về chính trị, họ sẻ mất quyền, cả quyền lãnh đạo và quyền lợi riêng. Đất nước bất hạnh chính là vì thế - "Thế cùng tất biến", nhiều người nói như vậy. Vì đó là quy luật. Nhưng lại là quy luật xã hội. Cứ chờ thì không ổn, biết bao giờ mới thay đổi! Phải có sự thức tỉnh, có ý chí, có hành động của con người! Nếu không sức ỳ sẽ lì lợm tồn tại."(27)
   Rồi ông viết tiếp: "Tôi không mong chờ gì ở sự tỉnh ngộ, thức thời của những người lãnh đạo. Họ đã khác xưa quá nhiều rồi! Có hai đức tính cần thiết nhất cho người lãnh đạo thì ở họ quá nghèo nàn. Đó là đức tính biết lắng nghe, tiếp nhận những điều hay, lẽ phải, và đức tính biết thích ứng chủ động với những biến chuyển đi lên của thế giới này."(28)
   Khi viết những đoạn văn ở trên, rõ ràng ông thấy, đối với tụi lãnh đạo cộng sản Việt Nam đương quyền, không thể nói lý lẽ được, mà chỉ có cách lật đổ - tức buộc chúng rút lui - đúng như quan điểm của những người Việt ở nước ngoài mà ông chụp cho cái mũ "cực đoan".
   Ông còn đi xa hơn nữa khi coi chính sách "hòa giải và hòa hợp" là vô hiệu, như ông đã viết: "Ngay cả những lực lượng ở ngoài nước, có tinh thần dân tộc và dân chủ, đề xướng hoặc tán thành hòa giải và hòa hợp cũng hầu như không có tác dụng gì đối với trong nước.”(29)
   Thật là: "Mâu thuẫn! Mâu thuẫn! Đại mâu thuẫn!!!" Nhưng điều đó đã phản ánh đúng cái thế éo le của ông: Một nhà báo thức thời trong con người cộng sản có quyền và vẫn còn hám quyền và hám danh!
Thưa ông Bùi Tín,

   Sau khi ký được cái hiệp định Paris 1973 về Việt Nam thì trên thực tế quân Mỹ không còn ở miền Nam Việt Nam nữa. Trong khi đó, tại Bắc Việt Nam, vẫn còn cố vấn Nga-xô, Tàu cộng, núp dưới cái tên chuyên gia nước bạn; vũ khí Nga-xô - Tàu cộng vẫn tiếp tục được đưa vào cả qua ngã phía Bắc (tức qua cửa Nam quan) lẫn phía Nam, qua cảng Kôm-pông-cham của Căm-bốt. Từ xe tăng hiện đại T54 đến tên lửa Sam; từ xăng dầu, xe vận tải các loại cho đến các loại thuốc men, lương khô; hệ thống truyền tin hiện đại cho đến quân phục, quân trang. Và không chỉ binh lính cộng sản ở phía Bắc ngang nhiên ào ào tràn vào Nam công khai, mà còn đủ loại cán bộ từ Bắc đưa vào như công an, báo chí, văn nghệ sỹ, y tế, các đoàn văn công và các đoàn chiếu phim lưu động v.v.
   Cho nên những mẫu chuyện về việc Nga-Tàu đều không muốn Hà-nội xâm lược Việt Nam Cộng Hòa chỉ là chuyện bá láp ở quán cà-phê vĩa hè mà thôi. Còn trên thực tế, nếu không muốn thì chỉ cần ngưng một vài thứ như dầu xăng và quân trang cùng thuốc men thì quân cộng sản Hà-nội không lẽ học cách của Quang Trung, 3 anh cáng lẫn nhau, và cởi truồng, ngậm viên "xuyên tâm liên" mà Nam tiến được chăng?
   Như thế là, trên thực tế, sau hiệp định Paris 1973 về Việt Nam, cuộc chiến tiếp diễn đã lột mặt nạ "chống Mỹ cứu nước" của cộng sản Hà-nội, phơi bày rõ bộ mặt Việt gian, tay sai của Nga-Tàu, xâm lược nước Việt Nam Cộng Hòa. Điều đó không phải là mới mẻ, mà nó nằm trong lộ trình của đế quốc đỏ Nga-Tàu từ khi giao cho Hồ chí Minh nặn ra cái tổ chức Việt gian, mang tên đảng cộng sản Đông dương từ 1930!
   Nếu có một lúc nào đó Tàu cộng không hài lòng với lũ tay sai cộng sản Việt Nam, thì đó chỉ là mâu thuẫn của hai tên đế quốc đỏ Nga-Tàu mà thôi. Vì thế nên, Tàu cộng đã chuẩn bị sẵn đầy tớ thay thế. Đó là tụi Khơ-me đỏ.
   Thực ra Khơ-me đỏ làm cái việc gọi là "diệt chủng", chủ yếu là, theo lệnh quan thầy Tàu cộng để thanh lọc hết tụi thân cộng sản Hà-nội; tụi do cộng sản Hà-nội nuôi cấy từ 1930, nhất là trong giai đoạn mượn đất Mỏ Vẹt của Căm-bốt làm thánh địa trong cuộc chiến xâm lược Việt Nam Cộng Hòa. Vì thế, men say chiến thắng sau 4-1975, bọn cộng sản Hà-nội hiện nguyên hình là tay sai trung thành của mẫu quốc Nga-xô qua "Hiệp ước hòa bình và hữu nghị" với Nga (1978) thì Trung cộng phải ra tay. Và, hai đế quốc đỏ Nga-Tàu qua lũ tay sai Việt gian cộng sản Hà-nội và Miên gian Khơ-me đỏ, đánh chém nhau bằng xương máu của người Việt Nam và người Miên. Tuy nghe phũ phàng, nhưng đó là sự thật trăm phần trăm được bóc trần khỏi mớ lý luận "hàn lâm" nhưng "mơ hồ"!!!
   Dám nhìn vào sự thật này thì ông mới lý giải đuợc tại sao những Lê đức Thọ, Chu huy Mân, Lê đức Anh cũng như binh lính cộng sản Việt Nam tự coi mình là ông chủ trên đất Căm-bốt; và ngay đối với nhân dân, quân đội của nước Việt Nam Cộng Hòa cũng bị chúng phân biệt đối xử. Khi cần đánh lừa thì chúng gọi là người Việt Nam với nhau. Khi lừa được rồi thì chúng gọi là ngụy, là phản động.
   Cái bẫy "hòa giải và hòa hợp" là do tập đoàn Việt gian cộng sản Hà-nội chế tạo sau khi Mỹ rút khỏi Việt Nam Cộng Hòa. Cái bẫy đó được tụi tay sai của chúng nằm vùng ở Việt Nam Cộng Hòa cùng lũ "nón tai bèo thành thị", tức tụi gọi là thành phần thứ ba; cùng lũ trí thức, nhà văn, nhà báo đói thông tin, táo bón kiến thức; cùng lũ Chí Phèo tập tọng làm chính trị rao bán, quảng cáo ầm ĩ để phá hoại tinh thần của nhân dân Việt Nam Cộng Hòa, bị lẫn lộn thực, giả, làm nản lòng chiến sỹ VNCH ngoài chiến trận. Vì thế mới có ngày Quốc hận 30-4-1975!
   a. Tin vào "hòa giải - hòa hợp" nên mới có chuyện "đóng tiền đi học tập 10 ngày";
   b. Tin vào "hòa giải - hòa hợp" nên mới mơ hồ tin vào việc "duy trì 5 thành phần kinh tế";
   c. Tin vào "hòa giải - hòa hợp" nên các nghĩa trang, mồ mả của quân dân, cán, chính mới bị tụi xâm lược cộng sản san bằng, ủi bỏ;
   d. Tin vào "hòa giải - hòa hợp" nên có nhiều người đã đấu tranh để từ đảo Guam trở về trại cải tạo Gia Trung!
   e. Tin vào "hòa giải - hòa hợp" nên hầu như chưa có mấy ai nghĩ đến "vượt biên bằng mọi giá";
   f. Kết quả của cái "hòa giải - hòa hợp" đó là quân, công, cán, chính của VNCH được đi tù không án, học tập "bóp cứt tươi cho nhuyễn" để tưới rau, như việc làm hàng ngày của trung tướng Huỳnh văn Cao và v.v…; dùng tay không để khai hoang v.v.; vợ con đi lên rừng để chết cho tiện đất chôn; nhà cửa, xe cộ, đồ đạc để lại cho binh lính, cán bộ cộng sản "hòa hợp".
   g. Kết quả của cái "hòa giải - hòa hợp" đó là thanh niên, con cái người dân Việt Nam Cộng Hòa bị bắt đi lính đánh thuê cho thực dân đỏ bên Căm-bốt mà chỉ riêng số què quặt theo số liệu của ông cung cấp là 300 ngàn; chưa kể số chết và mất tích, tổng cộng hàng triệu!!!
   Sau khi bị lừa vào cái bẫy "hòa giải - hòa hợp" lần thứ nhất đó, không chỉ trên đất nước VNCH, cột đèn nếu có chân cũng muốn vượt biên, mà cả nhân dân ở phía Bắc Việt Nam, trong bàn tay huấn luyện và giáo dục của tập đoàn Hồ chí Minh gần một phần tư thế kỷ, cũng tay không vượt biên bằng mọi giá.
   Cái giá đó là trung bình cứ 3 người ra đi thì một người xin làm dân của Neptune. Số đó xấp xỉ nửa triệu. Chưa kể phải chịu đựng hải tặc cướp đoạt, hãm hiếp tập thể và phải ăn thịt lẫn nhau!!!
   Xin ông cho biết, trong lịch sử Việt Nam, từ thời Hồng Bàng đến nay, có thời kỳ nào diễn ra cảnh tương tự không?
   Cuộc chạy nạn thực dân đỏ của người Việt Nam đã gây súc động trong nhân loại tiến bộ. Cái cộng đồng đó quần tụ lại, vượt bao khó khăn để có sự thành đạt như ngày nay.
   Cộng đồng người Việt hải ngoại phải bỏ mồ mả nhà cửa lưu vong vậy mà lũ Việt gian cộng sản Hà-nội, tay sai Nga-xô - Tàu cộng, còn qua mồm tên Phạm văn Đồng, qua hệ thống truyền thông, báo chí, đặc biệt là báo Nhân dân, để chửi cái cộng đồng đó là đĩ điếm, lưu manh, trộm cắp, lười lao động, phản động, Việt gian v.v.
   Cho đến khi cái cộng đồng quá lương thiện và tài ba này, hàng chục năm nay, mỗi năm gửi về trên 2 tỷ đô-la (nghĩa là bằng 1/3 tổng sản lượng của Sài-gòn, mà tổng sản lượng của cả Sài-gòn chiếm 60% của cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam) thì được cho đi tàu bay giấy là Việt kiều yêu nước, là khúc ruột xa ngàn trùng.
   Ôi! Cái lưỡi của tập đoàn Việt gian cộng sản Hà-nội, y hệt cái lưỡi heo của Ê-dốp!!!
   Và thế là lũ cộng sản nằm vùng ở hải ngoại; lũ "nón tai bèo mới" lẫn trong cộng đồng; lũ trí thức, viết văn, viết báo mù thông tin; lũ bị bệnh teo gan chủ hàng v.v… bắt đầu thổi kèn, đánh trống, quảng cáo bán lại món hàng "cạm bẫy tồn kho". Đó là luận điệu "hòa giải - hòa hợp."
Xin ông chú ý cho rằng:
   - Sự "hòa giải – hòa hợp" giữa nhân dân Nam và Bắc đã có ngay sau 1975. Điều đó chẳng cần ai kêu gọi cả. Đó là sự gắn bó, cảm thông tự nhiên giữa những người đồng cảnh. Vì tất cả đều là dân nô lệ của thực dân đỏ thông qua sự cai trị của tập đoàn Việt gian cộng sản khát máu.
   - Cộng đồng người Việt ở hải ngoại và nhân dân Việt Nam ở trong nước cũng chẳng cần ai phải nhắc nhở "hòa giải – hòa hợp" cả. Chứng cớ hùng hồn là hàng năm người Việt ở hải ngoại đã đổ về quốc nội hơn 2 tỷ đô-la mà không kèm một điều kiện nào!!!
   Vậy luận điệu mập mờ về "hòa giải - hòa hợp" được đưa ra nhằm vào những nhóm người nào?
   - Những người với tư cách tỵ nạn cộng sản để hình thành cộng đồng người Việt ở hải ngoại không thể hòa giải - hòa hợp với tập đoàn Việt gian cộng sản, tay sai của đế quốc đỏ Nga - Tàu. Lý do rất đơn giản:
   1) Vì chấp nhận "hòa giải – hòa hợp" với chúng nên mới phải lưu vong xứ người. Có lẽ nào còn ngu xuẩn, điên rồ đến mức bước lần thứ hai vào cái cạm bẫy "hòa giải – hòa hợp" đó nữa không? (!!!)
   2) Điều 4 hiến pháp 1992 của cộng sản ghi rõ quyền duy nhất làm chủ cả con người, cả đất nước Việt Nam cho tập đoàn Việt gian cộng sản. Vậy có nên ngu như lừa để đâm đầu về "hòa giải – hòa hợp" với quân xâm lược, làm nô lệ cho chúng không? Mà chúng là ai? - Đó là những tên thiến heo Đỗ Mười, có bệnh điên; Lê đức Anh, cai ác ôn đồn điền cao-su của thực dân Pháp; thằng con hoang Nông đức Mạnh, tất cả bọn chúng vẫn lấy "tư tưởng", lấy "đạo đức" của Hồ chí Minh làm khuôn vàng, thước ngọc cho việc trị dân. Mà Hồ là ai? Đó là tên, theo "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật", là kẻ răm rắp tuân lệnh quan thầy Stalin, là kẻ sùng bái "mặt trời phương đông", nể sợ "thiên triều" Bắc kinh (30) và hắn đã "truyền cho những người lãnh đạo khác ở quanh, cho cả đảng cộng sản một thái độ thụ động vô lý, mất hết khả năng phản kháng và tự vệ."(31)
   Cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại đã thoát cảnh "chim lồng, cá chậu" nay có đủ tỉnh táo để nghe bọn cò mồi mà "rúc đầu vào lồng, đắm mình trong chậu" để rồi khi bị trấn lột đến đồng USD cuối cùng, sẽ lại tỵ nạn lần nữa chăng?(!!!)
   - Liệu cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại có thể "hòa giải – hòa hợp" với những người "cộng sản lương thiện" (chữ nghĩa của ông Bùi Tín) được không?

Thưa ông Bùi Tín,

   Trong cuốn "Mặt thật", ông đã viết: "Tầng lớp quan chức đặc quyền đặc lợi ở Việt Nam hình thành dần dần kể từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945. Trong 30 năm chiến tranh, tầng lớp này đã thành một lớp người riêng biệt, tách dần khỏi cuộc sống và mức sống của toàn xã hội."(32)
   Tầng lớp này chính là toàn bộ cái gọi là ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Việt Nam và các cán bộ trung cao của nó ở mọi ngành. Nghĩa là trong đó có trung tướng cộng sản Trần Độ, ủy viên trung ương đảng cộng từ khóa 3 (1960) đến hết khóa 7 (1991), và cả ông – đại tá cộng sản Bùi Tín.
   Và tầng lớp đó, trong cuốn "Mặt thật", ông mô tả: "Sau "đổi mới", từ năm 1986, tầng lớp này đua nhau kiếm chác, tận dụng thị trường tự do, luật pháp còn nhiều sơ hở, dựa vào quyền lực và các mối quan hệ trên dưới, họ hàng, thân thuộc, cùng nhau móc ngoặc để kiếm chác trên lưng nghèo khổ của quân chúng lao động. Từ sau đại hội 7 giữa 1991, tầng lớp đặc quyền đặc lợi càng thêm biến chất cách mạng, lao vào tước đoạt và chia chác của cải xã hội, làm giàu nhanh chóng một cách phi pháp; nó ngày càng mang tính chất mafia bất lương và tàn ác, một kiểu tư bản đỏ, rừng rú mà lịch sử Việt Nam chưa từng có."(33)
   Nếu những người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại kiên định ý kiến: "không có vấn đề hòa giải và hòa hợp gì hết, chỉ có vấn đề buộc họ phải rút lui, chỉ có vấn đề họ phải giao quyền."(34), bị ông cho là "trịch thượng" và "không thực tế". Thì theo ông, việc "hòa giải – hòa hợp" với lũ "mafia bất lương và tàn ác, một kiểu tư bản đỏ, rừng rú mà lịch sử Việt Nam chưa từng có" như thế, sẽ được gọi là hành động gì? Ông có thấy rằng ông rất mâu thuẫn với chính ông không?
   Loại trừ tầng lớp "mafia bất lương, tàn ác" nói trên, ông đả nhận định rằng: "Đảng có gần 2 triệu người, trên tổng số hơn 70 triệu dân. Nhưng thật ra trong số 2 triệu đảng viên ấy, đông đảo đảng viên thường, chiếm đến 90%, không có chút tiếng nói và quyền lực nào. Họ chẳng khác gì mấy với quần chúng ngoài đảng. Họ cũng thấp cổ bé họng, cũng bị tước đoạt quyền suy nghĩ và quyền tự do ngôn luận, chỉ có cúi đầu và vỗ tay tán tụng các nghị quyết của đảng."(35)
   Qua cách trình bày của ông, chúng tôi nhận thấy ông chia đảng viên cộng sản Việt Nam ra làm 2 loại:
   1- Loại đặc quyền đặc lợi (10%), mà ông coi chúng là "mang tính chất mafia bất lương và tàn ác". Vậy mà những người Việt ở hải ngoại không chấp nhận "hòa giải - hòa hợp" với chúng thì bị ông coi là cực đoan. Khi đặt vấn đề vì chúng là kẻ có tội, phá hại đất nước, phải rút lui, phải giao quyền, thì ông lại cho rằng như thế là trịch thượng, không thực tế. Sự loanh quanh trong lý giải của ông vẫn chỉ là muốn "hòa giải – hòa hợp" với bọn mà ông gọi là "mafia bất lương và tàn ác". Ngay chính ông, cũng đã từng nằm trong số "đặc quyền đặc lợi ấy", vậy thử hỏi ông có "hòa giải – hòa hợp" với chúng được không?
   Chúng tôi nghĩ rằng chỉ có những kẻ ít nhiều cũng bất lương và tàn ác mới muốn "hòa giải – hòa hợp" với chúng để mở rộng thêm thành phần đặc quyền đặc lợi. Tổ tiên ta đã dạy: "Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã" ông ạ!!!
   2- Loại đảng viên thường (90%) như cách gọi và ước lượng của ông, mà ông còn cho đó là lương thiện.
   Chúng tôi chỉ xin nhắc lại ý của ông, rằng: "Sau khi đã giành được chính quyền, động cơ vào đảng đã xen lẫn tinh thần tự nguyện hy sinh với động cơ cá nhân: trở nên cán bộ có chức có quyền và từ đó có quyền lợi riêng. Càng về sau động cơ cá nhân càng chiếm ưu thế, để từ sau 1954, hầu như động cơ cá nhân vào đảng ở các cơ quan chính trị, kinh tế, xã hội, ở các địa phương chỉ là để trở thành cán bộ có chức có quyền nhằm tiến thân."(36)
   Ông rất trung thực viết những giòng trên, chỉ thiếu sót tý chút là cái động cơ vị kỷ, vị lợi vào đảng cũng có cả ở trong lực lượng vũ trang (binh lính, công an, cảnh sát) và văn hóa, giáo dục. Nếu không làm sao loại như Trần Độ, "văn còn dốt vũ còn ngu", mà từ 1946 nhờ là lính hầu của Trường Chinh, nên nhảy một phát thành "chính trị viên" của trung đoàn thủ đô (!!!); Nguyễn chí Thanh thành đại tướng; anh chàng Vũ đức Phúc, giáo viên cấp I, xuất thân từ thổi loa thông tin ở phố huyện Gia-lâm, (Hà-nội) thành Viện phó Viện văn học; anh giáo viên lớp 3 tỉnh lẻ Lạng-sơn là Vũ Khiêu thành Viện trưởng Viện Mỹ học Marx-Lênin; một anh biết đọc biết viết còn "chậm như rùa" là Phạm Hồng trở thành Phó chủ nhiệm ủy ban liên lạc văn hóa với nước ngoài; hay một chàng học chưa xong cấp 2 phổ thông như Hồ Trúc, thành thứ trưởng bộ giáo dục, và v.v…, kể sao hết được những loại giun dế đó!!!
   Đại tá nhà báo như ông thì hiển nhiên ông phải biết trong lực lượng vũ trang của cộng sản, tụi giữ chức chính trị viên hay chính ủy là lũ ngu nhất nhưng lại là lũ có quyền sinh sát nhất và cũng là lũ công thần chủ nghĩa. Những người ở miền Nam Việt Nam và nhất là ở hải ngoại nghe mấy tiếng "chính trị viên" hay "chính ủy" tưởng giỏi lắm, có biết đâu đó chính là tụi như quân SS của Hitler. Tụi đó là hình hài Việt Nam, nhưng mang tâm hồn "nô lệ đỏ". Chúng chính là kẻ huấn luyện, uốn nắn, gò ép lực lượng vũ trang thực hiện tôn chỉ hàng đầu là trung với đảng.
   Tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh và lũ thừa kế còn tồn tại được chính là dựa vào "công cụ chuyên chính" này (lính và công an) mà nòng cốt tai, mắt của chúng chính là lũ "chính trị viên" và "chính ủy". Bao tội ác tàn bạo của lực lượng ngụy quân cộng sản đều do bọn "chính trị viên" và "chính ủy" giáo dục, kích động và chỉ huy. Và, cũng chúng là kẻ có đặc quyền quyết định cho ai làm "cảm tình viên của đảng", cho ai "vào đảng". Chúng là tai, mắt của Hồ xưa kia, và của lũ đầu lãnh kế nghiệp Hồ cho tận bây giờ trong từng đơn vị to, nhỏ của lực lượng ngụy quân cộng sản.
   Về lũ đảng viên thường mà ông cho rằng chúng "chẳng khác gì mấy với quần chúng ngoài đảng cũng thấp cổ bé họng", là hoàn toàn sai và ông lại một lần nữa tự mâu thuẫn!
   Trước hết, dân số Việt Nam hiện nay là 82 triệu. Đảng viên cộng sản có 2 triệu đứa. Cứ cho cái đứa "thấp cổ bé họng nhất" trong số 2 triệu tên, thì, hắn cũng được tụi đầu lãnh cộng sản Việt gian coi trọng hơn 80 triệu dân thường, mang cái tên "quần chúng của đảng" - mà nghĩa đen là nô lệ của đảng!
   Làm sao bọn chúng lại giống "quần chúng ngoài đảng" được. Quyền "ăn trên ngồi chốc" của bọn chúng được "điều 4, hiến pháp cộng sản 1992" bảo đảm chắc như bắp, ông đã quên rồi sao? Nếu các tội ác như giết dân, phá hại đất nước là từ những cái đầu Việt gian của tập đoàn cộng sản chóp bu nghĩ ra, thì chính cái lũ "đảng viên thường" này là kẻ thi hành. Tỷ dụ: phó chính ủy cộng quân ở miền Nam, là Trần Độ, chỉ nghĩ ra biện pháp "pháo kích trường học, chợ búa, bệnh viện" để gây hoang mang, bất ổn trong đời sống của nhân dân Việt Nam Cộng Hòa, chứ hắn đâu có trực tiếp bắn. Mà chính là lũ "đảng viên thường" trong ngụy quân cộng sản trực tiếp bắn giết hoặc thúc ép binh lính chưa là đảng viên phải bắn giết.
   Chính ông đã hạ bút viết rằng: "Càng về sau động cơ cá nhân càng chiếm ưu thế, để từ sau 1954, hầu như động cơ cá nhân vào đảng ở các cơ quan chính trị, kinh tế, xã hội, ở các địa phương chỉ là để trở thành cán bộ có chức có quyền nhằm tiến thân"(37)!!!
   Vào đảng với cái lý tưởng như vậy thì làm sao lương thiện được!(?) Cũng là phường hút máu mủ của dân mà thôi. Có điều thân phận dòi bọ, ruồi muỗi thì lép vế hơn, nhưng vẫn là loại hút máu dân.
   Trường hợp này ông dùng chữ cũng chưa chính xác. Bởi vì đối với tụi cộng sản và ngay cả những đứa nâng bi tụi cộng sản cũng không thể dùng cụm từ lương thiện được. Bọn chúng chỉ là đại bất lương hoặc ít bất lương. Muốn bắt đầu cuộc sống lương thiện thì hành động đầu tiên là phải ra khỏi đảng cộng sản. Khác nào gái điếm muốn hoàn lương thì phải ra khỏi động điếm; chứ làm gì có chuyện "phấn đấu" vào làm điếm trong động mà vẫn trong trắng, ngây thơ!!!
   Vì thế cho nên làm sao lại mơ hồ, u mê để có thể "hòa giải - hòa hợp" với đảng viên thường được. Nếu họ đủ liêm sỉ để thấy được nỗi nhục "bị tước đoạt quyền suy nghĩ và quyền tự do ngôn luận, chỉ có cúi đầu và vỗ tay tán tụng các nghị quyết của đảng" như ông viết, thì họ nên vứt thẻ đảng trở về hội nhập với đại dân tộc. Hành động đó là sự "hòa giải - hòa hợp" rồi. Đâu cần phải đặt vấn đề này ra nữa. Nếu 90% đảng viên là đảng viên thường mà vứt thẻ đảng thì cái lũ đầu lãnh Việt gian cộng sản kể như mạt rệp. Và sáu tiếng "độc lập, tự do, hạnh phúc" sẽ nhanh chóng thành hiện thực cho toàn dân Việt Nam và đất nước Việt Nam.
   Một vấn đề khác được được đặt ra. Đó là cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản xâm lược ở hải ngoại có "hòa giải - hòa hợp" với những người hiện nay được gọi là "tiếng nói đấu tranh" cho dân chủ ở trong nước không?
Câu trả lời là có. Nhưng là có với một số điều kiện.

   Trước hết, cần ghi nhớ rằng chúng ta là những người tỵ nạn cộng sản xâm lược. Ước nguyện của chúng ta và cũng là mục tiêu của chúng ta là hòa giải - hòa hợp với mọi lực lượng trong và ngoài nước Việt Nam nhằm chống ách độc tài cai trị của bè lũ cộng sản Việt Nam tiếm quyền, xây dựng một đất nước Việt Nam nhân quyền được tôn trọng, mọi quyền tự do được thi hành, bình đẳng giữa các sắc tộc dân, bảo vệ trọn vẹn tài nguyên thiên nhiên, lãnh thổ, lãnh hải và không phận của Tổ quốc, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc, góp phần bảo vệ sự chung sống hòa bình và bình đẳng giữa các quốc gia trên toàn thế giới. Cho nên, dù ở ngoài nước hay trong nước, bất cứ cá nhân nào, nhóm nào, tổ chức đảng phái nào thực sự, thực lòng đấu tranh nhằm những mục tiêu nói trên đều là đối tượng "hòa giải – hòa hợp" trong bình đẳng và hiệu quả.
   Vì thế không thể cứ thấy cá nhân nào trong bọn cộng sản "ngã ngựa" là vội coi như họ đấu tranh cho dân chủ. Thí dụ: tên khát máu Nguyễn hà Phan hay Đào duy Tùng bị hất ra khỏi chính trị bộ; những tên Bùi thiện Ngộ, Bùi quốc Huy hạ bệ bọn Dương Thông, Quang Phòng. Hoặc trước đó là những tên tướng Hoàng văn Thái, Lê trọng Tấn, Phan Bình, kẻ chết một cách bí ẩn, kẻ bị ám sát cả cha lẫn con v.v. Rồi lại nữa, tên Tố Hữu bị ra khỏi chính trị bộ sau vụ giá, lương, tiền; tên Trần bạch Đằng thì không tài nào tóm được cái ghế dù là ủy viên dự khuyết trung ương. Các tên Vũ đình Liệu, Nguyễn ngọc Trìu thì văng ra khỏi hai cái ghế phó thủ tướng và gần đây là vụ Lê khả Phiêu, Lê minh Hương và Trương tấn Sang v.v. Nhiều thí dụ đại loại như vậy. Bọn chúng rớt đài là vì đấu đá phe phái mà thôi. Hệt như cái vụ gọi là "xét lại chống đảng", cũng chỉ là khi ấy tụi Việt gian theo Mao được Hồ cho phép bóp cổ tụi Việt gian theo Brê-giơ-nép, vì bọn chúng làm ảnh hưởng đến kế hoạch đu dây của Hồ giữa anh cả Nga-xô và anh Hai Ba Tàu, nhằm nhận được "viện trợ" của cả hai cho kế hoạch vũ trang xâm lược Việt Nam Cộng Hòa của Hồ.
   Xin tạm điểm vài tên đầu trò của nhóm "xét lại" để xem chúng là kẻ có tội đến mức nào. Dương bạch Mai, kẻ cùng Trần văn Giàu là hai tên chủ chốt trong vụ sát hại các giáo phái ở miền Nam Việt Nam trong các năm 1945-46 hàng chục vạn người. Nguyễn văn Trấn là kẻ âm mưu cài người vào các tổ chức yêu nước không cộng sản để cướp công và phá các tổ chức đó, như tổ chức thanh niên của kỹ sư Kha vạng Cân chẳng hạn. Và, Nguyễn văn Trấn cũng là kẻ đóng góp ý kiến cho Võ nguyên Giáp để lập ra "đảng ma" Nhân dân Cách mạng ở trong Nam và tổ chức "Mặt trận giải phóng" (xem cuốn "Gửi Mẹ và Quốc hội"). Ưng văn Khiêm, là kẻ nắm bộ ngoại giao, năm 1956 đã ký giấy dâng đất, dâng biển cho Tàu cộng (Phạm văn Đồng khẳng định lại hành động Việt gian đó vào 1958).
   Ngay Hoàng minh Chính, cho đến tận bây giờ, lúc nào cũng nhận là "tổng thư ký đảng dân chủ Việt Nam", cố tình lờ đi việc ông ta là "đảng viên cộng sản" được Hồ giao cho giữ chức "tổng thư ký đảng dân chủ Việt Nam" để giám sát và lèo lái đảng "bạn" đi vào xa lộ của chủ nghĩa thực dân đỏ, và lừa quốc tế là có đa đảng. Trong nhóm "xét lại" còn có một số học về điện ảnh, văn học từ Nga-xô về, hoàn toàn là những tên "tây con" như người Hà-nội gọi chúng khi ấy. Đi đâu, đứng đâu cũng "lốp bốp", "lép nhép" tiếng Nga. Bọn chúng ra công truyền bá tinh thần sùng bái mẫu quốc đỏ Nga-xô qua văn học, nghệ thuật, báo chí. Có những kẻ lập dị từ ăn ở, đi lại, cứ là như Đốt-tôi-épxki, Pao-tốp-xki, Tchec-nư-xép-xki, Mei-a-cốp-xki, Pô-lê-vôi mũi tẹt da vàng vậy.
   Ngay như bác sĩ Nguyễn khắc Viện, một tên cơ hội bẩn thỉu, biết bao lần "nói viết theo đuôi Tố Hữu", xoay như thò lò. Ngay đầu 1991, Nguyễn khắc Viện còn viết trên báo Nhân dân, cảnh giác chớ "mở cửa cho phương tây", mà phải ưu tiên đặc biệt quan hệ toàn diện với Nga-xô. Bài báo chưa khô mực thì Nga-xô đổ cái rụp. Cả đám "công dân loại 2" ở Hà-nội và Sài-gòn cười tên thò lò Nguyễn khắc Viện, sắp xuống lỗ vẫn cơ hội!!!
   Tất cả những tên thò lò lưu manh đó, đều có điểm giống nhau là, khi sắp chết mới dám viết "chút xíu trung thực" để kêu gọi lòng thương hại của thế hệ sau. Đó là loại như Xuân Diệu, Chế lan Viên, hay Nguyễn văn Trấn, Nguyễn Xiển, Nghiêm xuân Yêm v.v.
Thưa ông Bùi Tín,
   Bản thân ông là một nhà báo kỳ cựu của cộng sản. Anh em họ hàng của ông cũng nhiều người là nhà văn, nhà báo cộng sản. Chắc chắn những sự việc nêu trên ông đều biết, mà còn biết tỷ mỷ nữa kia. Tại sao ông kêu gọi nên "trung thực" mà lại lờ đi những kẻ viết sách xuyên tạc sự thật, đánh bóng lũ Việt gian, tay sai của Nga-xô, thành như những người yêu nước, để những người Việt trung hậu ở trong và ngoài Việt Nam, cũng như các thế hệ sau này, vì thiếu thông tin mà bị mắc quả lừa. Ông thừa biết tụi tự nguyện làm tay sai cho Nga-xô đã tích cực biết nhường nào nên chưa đầy 20 năm mà các sách báo của Nga, ảnh tài tử Nga đã đặc kín các thư viện trung ương và địa phương; các tủ sách nhà máy, công trường, nông trường, trường học mà còn trên đầu giường nhiều gia đình nông dân. Nhiều người cả đời chưa từng biết nước Nga ở đâu mà cũng đặt tên con là Mi-sa với Na-ta-sa. Nhiều nam nữ thanh niên không biết đến cả cái tên Nguyễn Du, Đoàn thị Điểm v.v., nhưng lại thuộc thơ Ê-xê-nhin; thuộc từng đoạn văn xuôi của Đốt-tôi-épxki; những lời "vàng ngọc" của Tchéc-nư-xépxki và tiểu sử của từ Tolstoi cho đến Bô-rít Pô-lê-vôi, Bun-đa-chúc, Fa-đê-ép, Gô-gôn,Tuốc-ghê-ép, Tchai-kốp-xki.!!!
   Nhiều nam nữ thanh niên công nhân, nông dân, học sinh, sinh viên và ngay cả binh lính, công an; thư tình viết cho nhau cũng nhố nhăng "chàng" gọi "nàng" là Lút-mi-la và "nàng gọi "chàng" là Xéc-gây. Học sinh, sinh viên hiểu về cuộc vượt sông Elbe" của "hồng quân Liên-xô" trong thế chiến thứ hai; về quân của Napoléon thất bại trước Ku-tu-dốp, mà không biết đến chiến thắng của Ngô Quyền; không biết đến quân của Lý Thường Kiệt đã đánh qua Tàu chặn đứng ý đồ xâm lược Việt Nam của Tàu, và không biết đến cả chiến thắng Rạch Gầm, Soài Mút của Quang Trung; còn buồn hơn nữa là chẳng biết đến Cử Huân, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám là ai, cũng như mù tịt về khởi nghĩa Yên Bái của Nguyễn Thái Học!!!(?)
   Thử hỏi như vậy là chúng đấu tranh cho "dân chủ" của nhân dân Việt Nam hay đấu tranh để xóa bỏ ảnh hưởng của văn học, nghệ thuật Việt Nam để cho tinh thần phụ thuộc, sùng bái Nga-xô đâm chồi, nẩy lộc trên khắp thành thị, xóm làng Việt Nam?
   Đối với loại này, "hòa hợp - hòa giải" để nắm tay nhau cùng đi về hướng Mát-scơ-va chăng, cho dù là Mát-scơ-va của Putin?(!) Bài học làm tay sai cho Nga-xô còn nóng hổi!!!
   Về nhóm "đấu tranh cho dân chủ", thành quả cụ thể chưa có gì rõ ràng. Chỉ có thể căn cứ vào quan điểm của họ qua phỏng vấn và các bài viết đã được công khai hóa, thì thấy:
   * Một số người có những bài viết rất "bốc lửa", nêu đích danh một số tên đầu lãnh cộng sản và kể tội bọn chúng như những bài viết của ông Trần Khuê là một thí dụ. Nhưng nếu đọc cẩn thận thì thấy ông Trần Khuê chỉ đánh vào ngọn chứ không dám nêu ra cái gốc của tội lỗi. Chưa nói đến rằng, quan điểm của ông Trần Khuê còn rất nguy hiểm. Trong khi vạch tội những loại Đỗ Mười, Phạm thế Duyệt, Đào duy Quát v.v., thì ông Trần Khuê lại đề cao Hồ chí Minh đến mức nâng lên thành chủ nghĩa Hồ chí Minh. Ông Trần Khuê tự bộc lộ là đệ tử cực kỳ trung thành của Hồ chí Minh, bỏ qua bằng chứng tội ác của Hồ, không muốn nhìn vào biết bao tài liệu đã và đang được khui ra. Hồ là kẻ độc tài nhất, tàn bạo nhất, là tên đại Việt gian nhất, không chỉ trong toàn bộ những tên Việt gian cộng sản, mà là nhất trong lịch sử Việt Nam. Tất cả những tên mà Trần Khuê hài tội đều do Hồ đề bạt, cất nhắc, đào tạo và điều đó chứng tỏ Hồ phải chịu trách nhiệm!
   * Cho nên việc đặt Trần Khuê là người đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam hiện nay thật là hài hước!!!
   hải ngoại hiện nay, cần nhớ lại xem, tại sao 50 ngàn người đã xuống đường trong nhiều ngày, nhiều đêm để đấu tranh việc tên Trần Trường treo cờ máu và ảnh Hồ chí Minh ở trong cửa tiệm của hắn.
   Trần Trường chỉ treo ảnh của Hồ "trong tiệm của hắn thì bị phản đối".
   Còn Trần Khuê ca ngợi, vinh danh Hồ, tuyên truyền rộng rãi trên các web thì được nâng lên thành nhà đấu tranh cho dân chủ!!!
   Trần Trường và Trần Khuê, ai là kẻ xuyên tạc sự thật, bóp méo lịch sử và cực kỳ nguy hiểm cho việc đấu tranh cho dân chủ của Việt Nam?!!!
Thử giả dụ như sau:
   Một người Do-thái nào đó treo cờ phát-xít Đức và ảnh của Hitler ở trong nhà của họ và một người Do-thái khác viết sách, báo ca ngợi Hitler; thử hỏi kẻ nào đáng phỉ nhổ vào mặt hơn!!!
   Là nạn nhân của tập đoàn Việt gian cộng sản Hồ chí Minh, phải bỏ tổ-quốc đi lưu vong, tỵ nạn, nhưng vẫn nung nấu lòng yêu nước, phục quốc. Vậy có thể nào phục quốc bằng cách đi theo một kẻ lấy đầu đội đít Hồ chí Minh lên mà thờ được không?
   Phải chăng vì Trần Khuê bị cộng sản quản chế, mới đây lại bị bắt v.v… nên là người đấu tranh cho dân chủ?
   Phải căn cứ vào tuyên bố của họ, giấy trắng mực đen, chứ không phải nhìn vào việc cộng sản làm khó dễ hay bị bắt!
   Trước đây, những tên tướng công an Mười Vân (Đồng Nai) bị tử hình; Năm Cam bị bắt; nguyên bộ trưởng điện, than Vũ ngọc Hải bị tù v.v… Như vậy cũng là đấu tranh cho dân chủ chăng?
   Nhìn với góc độ là người tỵ nạn Việt gian cộng sản xâm lược, thì Năm Cam còn giúp mọi người thấy được bộ mặt thật của tập đoàn đầu nậu chóp bu của tụi Việt gian cộng sản đương quyền một cách thật cụ thể, nhất là công an và tòa án, công cụ chuyên chính của chúng. Còn Trần Khuê thì ngược lại, lớn tiếng tố cáo mấy tên cướp để rồi tạc tượng, lập đền thờ tên tướng cướp.
   Công nhận công lao của Hồ như Trần Khuê quảng bá có nghĩa chúng ta đã tự phỉ nhổ vào tư cách tỵ nạn cộng sản xâm lược; phỉ báng sự hy sinh của quân, dân, cán, chính VNCH, và những nạn nhân của Hồ trong cải cách ruộng đất, chấn chỉnh tổ chức, cách mạng văn hóa tư tưởng, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và những người đã nằm dưới biển sâu trong cuộc vượt biển, tìm đường sống!!! Từ Trần Khuê, tưởng cũng cần thiết phải nhắc lại nhân vật Trần Độ, tuy ông ta đã chết, nhằm khẳng định quan điểm trắng đen rõ ràng về khái niệm đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam hiện nay.
   Về trung tướng Trần Độ, phó chính ủy ngụy quân cộng sản xâm lược Việt Nam Cộng Hòa từ 1960 đến ngày chúng đặt xong ách cai trị thực dân đỏ năm 1975, thì đã nhiều ngòi bút, cả trong và ngoài Việt Nam, nâng bi đến mức từ một viên tướng mà toàn thân, mồm miệng đều ướt đẫm máu dân Việt Nam, trở thành hai lần anh hùng: "anh hùng giải phóng dân tộc" và "anh hùng đấu tranh cho dân chủ của Việt Nam" (ống đu đủ của Nguyễn thanh Giang).

 
Việt Thường