Samstag, 30. Juni 2012

BÀI 8: NHỮNG TÊN ĐẶC CÔNG ĐỎ: BÙI TÍN NHẬN XÉT VỀ QLVNCH và QUỐC KỲ VÀNG


LT: trong sách và loạt bài viết :“Những tên đặc công đỏ trong phong trào đòi hỏi dân chủ cho Việt Nam“, của tác giả nhà báo Việt Thường, vạch mặt tên tội phạm đặc công đỏ Việt gian cộng sản Bùi Tín và những tên Việt gian giả danh đội lốt Cộng sản và lũ tay sai theo lệnh của gian đảng VGCS giàn dựng màn kịch đòi hỏi đấu tranh dân chủ…cuội đểu giả.




Việt Thường, Nam Nhân và Lý Tuấn

BÙI TÍN NHẬN XÉT VỀ QLVNCH và QUỐC KỲ VÀNG

“Trích từ : Những tên đặc công đỏ trong phong trào đòi hỏi dân chủ cho Việt Nam.

VĂN BÚT PHÁT HÀNH năm 2004. Từ trang 156–165. “

***

Bùi Tín: Phản bội chứ không phản tỉnh


Cha đẻ của Bùi Tín là, Bùi bằng Đoàn, một kẻ cả cuộc đời chỉ làm “cẩu nô”. Thời thực dân Pháp, Bùi bằng Đoàn đã bỏ tù, đưa đi lưu đầy, tịch thu tài sản hàng trăm vạn người Việt Nam chỉ vì thiếu thuế đóng cho thực dân Pháp, hoặc chống lại bọn xâm lược thực dân Pháp bằng cách này, cách khác. Chính vì nắm được cái bản chất của cả 3 anh em họ Bùi – cố công học để ra làm tay sai cho thực dân Pháp, hai anh thành tuần phủ, còn Bùi bằng Đoàn thì leo tới thượng thư Bộ Hình – tên đao phủ với cỗ máy chém của Khâm sứ thực dân Pháp tại Trung kỳ – cho nên Hồ mới gọi Bùi bằng Đoàn ra hợp tác.

Nếu Bùi Tín đừng lấc cấc dùng ngòi bút bất lương để tô vẽ cho dòng họ và bản thân thì cũng chẳng ai thèm quan tâm đến tên “cẩu nô” Bùi bằng Đoàn, vì hắn chỉ là cặn bã của lịch sử Việt Nam!

Nếu quả rằng họ Bùi thấm nhuần Nho giáo, như Bùi Tín viết, thì dù Hồ có giết cũng không hợp tác chứ đâu cần đến lần thứ ba đã đi bằng đầu gối ra hợp tác với Hồ! Bùi Tín hãy nhìn lại lịch sử xem Trần Bình Trọng ứng xử ra sao khi giặc Nguyên-Mông mời làm vua. Rồi từ Phan Đình Phùng đến Phan Bội Châu; Lương Văn Can, Nguyễn Thiện Thuật, Tam Nguyên Yên Đỗ, Hoàng Hoa Thám… nhiều lắm lắm. Và, đặc biệt là cụ Ngô Đình Diệm được Hồ trân trọng mời nhưng đã sáng suốt từ chối cái ghế bộ trưởng nội vụ, cũng như Đức Cha Lê Hữu Từ, không để bị Hồ lừa.

Sau này, trong cái thường vụ Quốc hội khóa 1, chạy lên Việt-Bắc, giáo sư Trịnh Thục Viên bị áp chế qua cái gọi là “đấu tố chính trị”; cụ Nguyễn Văn Tố bị thực dân Pháp nhảy dù ở Bắc-cạn giết chết (?) (Bị chỉ điểm? Tại sao chỉ có cụ Tố, chủ tịch Quốc hội bị chết?), Hồ đã thí cho “cẩu nô” họ Bùi cái ghế Quyền chủ tịch ủy ban thường vụ quốc hội. Nếu quả rằng Bùi bằng Đoàn “liêm khiết đến mức tuyệt đối” thì sao những người như luật sư Nguyễn mạnh Tường, nhà kinh tế Hoàng văn Đức, thứ trưởng văn hóa Đỗ Đức Dục, giáo sư Trương Tửu và nhiều văn nghệ sỹ, sinh viên… dám tố giác sai lầm của cải cách ruộng đất v.v… Vậy mà Bùi bằng Đoàn hoàn toàn câm như chó ăn vụng bột trong chức vụ dân cử cao nhất???!!!

Xưa Bùi bằng Đoàn đã nghe lệnh tên Khâm sứ thực dân Pháp ở Trung kỳ để bỏ tù đày và giết những người Việt Nam vô tội, những người Việt Nam yêu nước; “Mày Tao” với nhà đại ái quốc của Việt Nam là cụ Phan Bội Châu. Khi thờ Hồ thì “thông qua” mọi chỉ thị của Hồ nhằm “hợp pháp hóa” đường lối bán nước của lũ Việt gian Hồ chí Minh cho Nga-xô và Tàu cộng.

Ngòi bút của Bùi Tín có thể ca ngợi một kẻ có ăn học mà không bằng loài chó ngựa như vậy, đương nhiên hắn không thể nào phân biệt nổi đâu là chính nghĩa. Chính vì thế, khi ra đến hải ngoại, Bùi Tín đẻ ra những cuốn như “Hoa xuyên tuyết; Mặt thật; Mây mù thế kỷ và rất nhiều bài viết khác nữa…” hoàn toàn bằng bút pháp lưu manh, lý luận bất lương, thông tin lộn ngược. Chính với tâm trạng của tên ăn trộm luôn luôn sợ bị bắt quả tang, nên Bùi Tín lúc nào cũng nói đến: “sự thật, khách quan, không thêm bớt, bằng cái đầu lạnh và tỉnh táo v.v…”

Bùi Tín luôn luôn để tính lưu manh dẫn giắt, bịa ra nhân vật thứ ba – mà không nói cụ thể là ai – để mượn mồm kẻ vô danh đó thóa mạ quân, dân, chính của Việt Nam Cộng Hòa, của cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại.

Thí dụ1: Trong “Hoa xuyên tuyết”, trang 88, Bùi Tín viết:

“Chẳng phải trong số trên dưới 1 triệu gọi là ngụy quân, ngụy quyền thì số bị đi cải tạo dài hạn chỉ bao gồm trên 10 vạn người, nghĩa là chừng 1 phần mười, còn 9 phần mười đã được hưởng quyền công dân ngay từ đầu rồi là gì? Chẳng phải đã có ông chuẩn tướng Nguyễn hữu Hạnh tham gia Mặt trận tổ quốc thành phố Hồ chí Minh, ông Nguyễn xuân Oánh, quyền thủ tướng cũ được bầu làm đại biểu quốc hội rồi là gì?”

Về chuyện “cải tạo dài hạn”, Bùi Tín càng lưu manh hơn khi hắn chơi trò xiếc chữ nghĩa. Trong “Hoa xuyên tuyết”, trang 2, hắn viết như sau:

“Nói là giải phóng đất nước, giải phóng đồng bào, mà sao hàng trăm nghìn người lại phải vào ngồi tù trong các trại tập trung cải tạo, kéo dài hàng trăm, hàng ngàn ngày với biết bao tủi cực và khổ đau…”(người viết nhấn mạnh các chữ trăm và ngàn)

Nếu bị giọt “nước mắt cá sấu” của Bùi Tín làm mơ hồ, chúng ta dễ dàng bỏ qua chất lưu manh của họ Bùi khi hắn dùng chữ trăm và ngàn thay cho tháng và năm. Thế hệ con em chúng ta và những người nước ngoài làm công tác nghiên cứu sẽ nghĩ rằng:

- Trăm ngày có nghĩa là hơn ba tháng;

- Ngàn ngày có nghĩa là ba năm.

Như thế là đúng với lời tuyên bố, của tên Phạm văn Đồng, cố thủ tướng ngụy quyền cộng sản, với phóng viên báo chí trong và ngoài nước rằng “chính sách cải tạo” của chúng chỉ có thời hạn là ba năm!

Thực tế là chí ít cũng hai hay năm năm; còn hầu hết từ bảy hoặc tám năm cho đến trên mười lăm năm và khá nhiều bị tù đến hai chục năm!

Bộ mặt của tên phản tỉnh cuội Bùi Tín – con trai của “cẩu nô” Bùi bằng Đoàn – là thế đó.

Thí dụ 2: Trong “Mây mù thế kỷ”, trang 32, Bùi Tín viết về quân lực VNCH như sau:

“Quân lực VNCH có những khó khăn, ở ngay sự ra đời và phát triển của nó. Nó được chính quyền thực dân Pháp lập nên, được người Pháp tổ chức và huấn luyện. Các sỹ quan cấp cao nhất hầu hết là học ở các trường quân sự của thực dân Pháp. Các tướng Nguyễn văn Thiệu, Nguyễn cao Kỳ, Nguyễn văn Hinh, Trần văn Đôn, Dương văn Minh, Phạm văn Phú, Đỗ cao Trí, Ngô quang Trưởng, Đỗ Mậu… đều thế cả. Trước nhân dân cả nước Việt Nam, trước dư luận quốc tế, quả thật là có nhiều khó khăn, khi muốn dành cho quân đội ấy những chữ “yêu nước”, “chính nghĩa”, khác hẳn với Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tất nhiên điều này, anh em binh sỹ, sỹ quan sơ cấp và trung cấp của Quân đội VNCH không chịu trách nhiệm. Nó thuộc về lịch sử.” (Người viết in đậm những chữ cần lưu ý quý bạn đọc).

Bạn đọc tỉnh táo, đọc những câu trên, sẽ thấy rõ hơn dòng máu “cẩu nô” chỉ đạo ngòi bút “tô hồng, bôi đen” của tên, nguyên phó tổng biên tập, báo Nhân dân, cơ quan nói láo, của tập đoàn Việt gian cộng sản.

Chính Bùi Tín cũng thừa nhận đại tướng cộng quân Lê trọng Tấn là đội tàu bay của thực dân Pháp. Thêm nữa, những tên như đại tướng Võ nguyên Giáp, trước 1945 là con nuôi chánh cẩm thực dân Pháp là Marty, sau 1954 là con nuôi của bố Krút-xốp (Nga-xô); thiếu tướng Lê thiết Hùng là thiếu tá quân của Trương phát Khuê (Tàu Tưởng); đại tướng Lê đức Anh là cặp-rằng đồn điền cao-su của thực dân Pháp; thượng tướng Chu văn Tấn là lính dõng thời thực dân Pháp; đại tướng Đoàn Khuê, cả hắn và cha hắn đều là chánh tổng ác ôn; đại tướng Nguyễn chí Thanh, tên đầu hàng, chỉ điểm cho Khâm sứ Trung kỳ của thực dân Pháp bắt người trong tổ chức của hắn, trong số đó có Đặng xuân Thiều, anh em của Trường Chinh. Kẻ tuân lệnh Khâm sứ Trung kỳ cho cả nút vào tù và đi phát vãng lại chính là “cẩu nô” Hình bộ Thượng thư Bùi bằng Đoàn. Chính “nhà văn không làm chính trị” Vũ thư Hiên, bỏ vợ con ở lại Việt Nam, “trốn” từ Nga sang thế giới phương tây, để “tô hồng” cho những tên Việt gian thân Nga-xô trong vụ án “xét lại” thành “những người đấu tranh cho dân chủ”, thường được con gái Đặng xuân Thiều “tháp tùng”! Tên thượng tướng Phùng thế Tài, nguyên tổng tham mưu phó kiêm tư lệnh và chính ủy bộ tư lệnh phòng không, không quân ngụy quân lê dương cộng sản Việt Nam, xuất thân từ một tên du đãng ở Vân-nam-phủ của Tàu, từ trước 1940, rồi thành mật vụ của quân Tàu (Tưởng); tên thiếu tướng Tô Ký, trước 1975 từng là tư lệnh ngụy quân cộng sản quân khu Tây-Bắc, cũng là dân đâm thuê chém mướn ở miệt Cửu-long, miền Nam Việt Nam v.v… Còn nhiều lắm lắm, kể sao cho hết được. Những chuyện đó không thể nào Bùi Tín dám nói là không biết. Nhất là cái lý lịch của tên Võ nguyên Giáp, từng là đại tướng tổng tư lệnh kiêm bí thư quân ủy trung ương của ngụy quân cộng sản, thì hắn có là con nuôi chánh cẩm thực dân Pháp là Marty hay không, và hắn có đầu hàng hay không thì các đại biểu trong đại hội 7 của Việt gian cộng sản đều được đọc tài liệu do ban tổ chức đại hội phân phát. Bùi Tín có dám chối là không biết không?

So sánh tướng lãnh của hai phía – thì quân đội VNCH rõ ràng là yêu nước và chính nghĩa thực thụ 100%. Các tướng lãnh của VNCH đã dám hy sinh vì dân vì nước như Ngụy Văn Thà, Nguyễn Khoa Nam v.v… Còn các tướng ngụy quân cộng sản từ Giáp trở xuống, từ Tô Ký trở lên, cho đến toàn bộ cái gọi là “quân đội nhân dân”, trong đó có tên “cẩu nô” Bùi Tín, kể từ khi bỏ cái danh xưng “quân đội quốc gia” – là danh xưng của lực lượng vũ trang hợp nhất của Chính phủ Liên hiệp do Quốc hội Liên hiệp đa đảng (khóa 1) bầu ra – để thành “quân đội nhân dân”, là lực lượng vũ trang bị Hồ lưu manh cho qua Tàu cộng tẩy não trong các năm 1949-50, thì cái Quân đội đó đã thoái hóa thành “ngụy quân cộng sản”, lính lê dương đánh thuê cho Nga-xô và Tàu cộng trong việc bành trướng chủ nghĩa thực dân đỏ – tức chủ nghĩa Marx-Lénine-Staline và tư tưởng Mao trạch Đông!!!

Chính Bùi Tín cũng thú nhận trong “Mây mù thế kỷ”, trang 91 về danh xưng Quân đội Quốc gia bị đổi thành “quân đội nhân dân”. Và, Bùi Tín thú nhận rằng:

“Chúng tôi cho thời kỳ 1947-1948 là thời kỳ đẹp nhất của trai trẻ, vô tư, hăng hái, lãng mạn.” (Mây mù thế kỷ, trang 91).

Tại sao? Vì thời kỳ đó lực lượng vũ trang hợp nhất của các đảng phái trong Chính phủ Liên hiệp vẫn còn mang danh xưng, quân đội quốc gia với tôn chỉ trung với nước, hiếu với dân. Phải đến cuối năm 1949, Mao thống trị cả lục địa Tàu thì tên Việt gian Hồ chí Minh lấy cớ luân phiên đưa quân đội quốc gia qua Tàu cộng huấn luyện, trang bị lại để tẩy não, áp đặt khiến những người lính quốc gia mất hết cả “vô tư, hăng hái, lãng mạn” – như Bùi Tín viết, biến chất thành lũ lê dương người Việt đánh thuê cho tập đoàn thực dân đỏ Nga-xô – Tàu cộng. Có nghĩa họ đã bị “dã thú hóa” thành lũ Việt gian vũ trang, công cụ chuyên chính của tập đoàn Việt gian cộng sản theo tôn chỉ mới – khi núp dưới danh xưng quân đội nhân dân hay Bộ đội cụ Hồ – là trung với đảng (Việt gian cộng sản). Vì thế mặt mũi chúng lúc nào cũng như “hiền triết phương đông” như ngôn ngữ của bút nô Lữ Phương; mở mồm là như con vẹt, leo lẻo về chủ nghĩa Mác cùng Lê (nghe mà tởm), và khi có súng trong tay chúng “hồ hởi, phấn khởi” bắn thoải mái vào trường học, chợ búa, buôn làng của dân v.v… không phân biệt nổi đúng, sai.

Rành rành như vậy mà Bùi Tín kết luận “lộn tùng phèo” y như kết luận về anh em cẩu nô của thực dân Pháp là 3 tên họ Bùi.

Yêu nước mà theo lệnh của lũ sát nhân, trong đó có Trần Độ, để bắn vào những đồng đội của trung tá Ngụy Văn Thà đang làm nhiệm vụ đánh quân Tàu cộng xâm lược các hải đảo Việt Nam. Đấy là yêu nước Tàu cộng, hiểu chưa hả đại tá lê dương đỏ Bùi Tín???

Chính nghĩa mà chấp nhận thân phận quân xâm lược để bị xích cẳng vào xe tăng và đại pháo, uống thuốc kích thích để tàn sát dân lành như vụ Mậu Thân (1968) ở Huế, giết đồng bào sắc tộc thiểu số ở Hà-giang, đồng bào theo đạo công giáo ở Khu Bốn cũ; đồng bào theo đạo Tin lành ở Tây-nguyên v.v…

Thí dụ 3: Trong “Mây mủ thế kỷ”, trang 54, Bùi Tín viết:

“Tôi đã gặp một số vị trong chế độ Sài-gòn cũ, có vị là trung tướng nói với tôi rằng: “Nếu chúng tôi chiến thắng, tức miền Nam thắng miền Bắc, không chắc chính sách của chúng tôi đối với các ông đã hơn gì so với chính sách của các ông đối với chúng tôi. Có khi chúng tôi lại có những trại giam tàn bạo hơn.” Ngay một số trí thức từng ở trong chính quyền miền Nam cũng tỏ ra phủ nhận bộ máy lãnh đạo của chế độ VNCH trước đây và phủ nhận cả lá cờ vàng ba sọc đỏ. Nhiều người trước kia đã là viên chức cao cấp trong chính quyền miền Nam đã nói với tôi: “Chúng tôi muốn quên lá cờ vàng ba sọc đỏ đi vì nó tiêu biểu cho một chế độ quan liêu quân phiệt, tham nhũng và thối nát, chúng tôi không muốn thừa nhận lá cờ ấy. Chế độ đó đã thất trận, thất trận do thối nát, thiếu sáng suốt, phải bỏ nước chạy ra nước ngoài.” ở trong nước, đồng bào ta, kể cả những người từng sống trong chế độ Sài-gòn cuõ, cũng không nuối tiếc và hy vọng gì về những người “quốc gia” ở nước ngoài, vì họ không tác động có hiệu quả đối với đất nước, trong khi phần đông họ chỉ cổ vũ hận thù và một thời gian còn có không ít người chủ trương dùng bạo lực.”

Bộ óc lưu manh của Bùi Tín “bịa” ra những “nhân vật thứ ba” để nói lên chính ý nghĩ của hắn và đồng bọn. Thử hỏi: “một số vị” là bao nhiêu người, tên tuổi; tên vị “trung tướng” là gì?; “một số trí thức” là bao nhiêu người, tên tuổi, học vị, ngành nghề trước 1975 và hiện nay; “nhiều người trước kia” v.v… cũng thế, bao nhiêu người tất cả, họ xếp hàng trước mặt Bùi Tín đồng thanh tuyên bố: “Chúng tôi muốn quên cờ vàng ba sọc đỏ…” hay sao, hay từng nhóm, từng người xin gặp Bùi Tín để nói như vậy. Rồi nữa, Bùi Tín sử dụng cơ quan thăm dò nào, tổ chức thăm dò ra sao, ở đâu, lúc nào, mà biết được “đồng bào ta” và “những người từng sống trong chế độ Sài-gòn cũ”, không nuối tiếc và không hy vọng gì về những người “quốc gia” ở nước ngoài…

Viết lách như vậy mà cũng đòi cầm bút và nói đến trung thực. Cũng chẳng lạ gì, vì Bùi Tín chính là hậu thân của Bùi bằng Đoàn – kẻ dám gọi nhà đại ái quốc Phan Bội Châu của Việt Nam là “mày”. Và, như Bùi Tín, khoe, được đích thân tên đại diện cho “hồng” trong ngụy quân Việt gian cộng sản, Nguyễn chí Thanh, sau khi thanh lọc xong những phần tử gọi là “xét lại” (tức Việt gian thờ Nga-xô làm thầy) trong tờ báo lá cải mang tên “Báo Quân đội Nhân dân”, chọn lọc cho vào hàng ngũ “bút nô” “tô hồng, bôi đen” chuyên nghiệp. Cái nguồn gốc xuất thân và tên tuổi quan thầy của Bùi Tín đủ biểu hiện rõ Bùi Tín là loại… “mặt người dạ thú”!

Việt Thường, Nam Nhân và Lý Tuấn

BÀI 7: NHỮNG TÊN ĐẶC CÔNG ĐỎ THEO KỊCH BẢN NÀO?

LT: trong sách và loạt bài viết :“Những tên đặc công đỏ trong phong trào đòi hỏi dân chủ cho Việt Nam“, của tác giả nhà báo Việt Thường, vạch mặt tên tội phạm đặc công đỏ Việt gian cộng sản Bùi Tín và những tên Việt gian giả danh đội lốt Cộng sản và lũ tay sai theo lệnh của gian đảng VGCS giàn dựng màn kịch đòi hỏi đấu tranh dân chủ…cuội đểu giả.

Theo nguồn: nhabaovietthuong.blogspot.com
Vietnam - Buddhist



                          Bài 7- Theo kịch bản nào?
     Đọc xong hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" của ông, chúng tôi đã nói ở những dòng đầu của bài viết này, rằng chúng tôi thất vọng vì tưởng ông mang lại những tín hiệu tốt lành. Chúng tôi chỉ phát hiện ở ông một nhà thuyết khách với những lập luận mơ hồ và những đề nghị càng mơ hồ hơn.


   Sau khi kể một loạt chuyện trong xã hội thực dân đỏ, mà những chuyện đó đại bộ phận nhân dân - nhất là nhân dân ở miền Bắc Việt Nam - đều đã biết từ rất lâu để cho ra đời các tiếu lâm thời đại, thơ ghế đá, các cách viết rồi "lách", cho ra đời những truyện mang tính hai mặt, thoát khỏi sự kiểm soát của lũ chó gác cửa "lâu đài văn nghệ", để công khai trên chính các phương tiện thông tin của tập đoàn Việt gian cộng sản tiếm quyền; và, nhân dân lao động gồm công nhân, nông dân, xã viên tiểu thủ công, nhân viên cơ quan bị xếp loại "phó thường dân", đã tự phát lãn công, phá hoại sản xuất, làm cho tập đoàn Việt gian công sản lúc nào cũng la lối: "Vấn đề ai thắng ai vẫn cần được đặt ra!"; ông mới lật mấy lá bài tủ của ông (hoặc của cấp trên giao nhiệm vụ cho ông). Đó là:


   1- Cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản xâm lược hãy quên cái chuyện xâm lăng, giết người, cướp của đi. Đó là quá khứ rồi. Và đừng hận thù nữa. Phải thấy trên thực tế, tập đoàn Việt gian cộng sản đã nắm quyền cai trị cả nước; là thành viên của Liên hiệp quốc, được quốc tế công nhận. Nêu: "yêu sách những người cộng sản phải ra đi không điều kiện, đảng cộng sản phải rút lui tức khắc mang tính chất ảo tưởng và trịch thượng.”(81)
   2- Chỉ còn một biện pháp để "Việt Nam sẽ tiến trên đường dân chủ" là đấu tranh chính trị.  
   hải ngoại, ông gợi ý cho hướng hoạt động chính trị của cộng đồng là:
   "Nên lập nên những tổ chức thiết thực hơn, mở ra các cuộc vận động quyên góp tiền của theo các hướng:
   - Lập quỹ cứu giúp trẻ em bị suy dinh dưỡng nặng (ước chừng 2 triệu em từ sơ sinh đến 6 tuổi - Trẻ em trong nước từ 15 năm nay sanh ra nhẹ hơn trước trung bình 200 gram và ngắn hơn 2 xăng-ti-mét là một nguy cơ cho nòi giống).
   - Lập quỹ hỗ trợ thương binh vừa và nặng của các bên trong cuộc chiến, không phân biệt thuộc bên nào (số này ước tính lên đến 300.000 người). Hiện cuộc sống của số bà con này vô cùng bi đát.
   - Lập quỹ khuyến học, cấp học bỗng cho học sinh giỏi ở trong nước và ra các trường đại học ngoài nước (mỗi năm khởi đầu chừng 200 em, sau sẽ nâng lên 800, rồi 1000 đến 2000).
   - Lập quỹ bảo tồn các di tích văn hóa (ngoài khu Đại Nội và các lăng tẩm ở Huế được Unesco hỗ trợ, có chừng 250 di tích văn hóa có ý nghĩa cần bảo tồn, trùng tu và duy trì, gồm các đền chùa lớn như vùng Hoa Lư (Ninh-bình), khu Đại Nội Thăng Long từ đời Lý (nay ở trong khu vực Bộ quốc phòng) cho đến các mộ của các danh nhân như Nguyễn Du, Đặng Trần Côn, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu.
  
   Các quỹ này có thể đặt tên là Quỹ tình thương số 1 đến số 4.
   Không lo rằng tiền quyên góp sẽ vào túi tham nhũng vì các Quỹ ấy đều có cơ quan quản trị đặt đại diện ở trong nước cùng điều phối tận cơ sở. Chắc chắn nếu thực phẩm, sinh tố, sữa, xe đẩy các loại cho thương binh được phân phát cùng với các học bỗng được cấp, các di tích được bảo tồn do công sức của cộng đồng thì thanh thế của cộng đồng sẽ được phát huy mạnh mẽ ở trong nước. Nó sẽ có tác dụng bằng hàng trăm bài diễn văn và hô hào, bằng hàng trăm nghị quyết. Và lúc ấy những bài diễn văn và nghị quyết chắc sẽ gần hơn với cuộc sống ở trong nước, đi vào lòng người nhanh và sâu.
   Tôi nghĩ hiện nay đã là hơi chậm, nhưng vẫn còn là thời cơ để làm những việc thiết thực. Đó là việc thiện, việc nghĩa, cũng là việc làm rất chính trị, hợp ý bà con ta ở ngoài nước, hợp long bà con ở trong nước, rất thực tế nhằm hỗ trợ cho phong trào dân chủ ở trong nước.
   Khi tình thương đã thấm được trong và ngoài nước, cộng đồng sẽ có đủ sáng kiến: quyên góp, biểu diễn văn nghệ, dạ hội, vũ hội, triển lãm, bán huy hiệu, góp hàng tháng một buổi tiền lương, làm việc thiện nguyện để góp vào các Quỹ tình thương. Quỹ có thể đạt hàng chục cho đến hàng trăm triệu đô la, theo mức độ của tình thương được khơi động."(82)
   Hai quyển "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" của ông dài gần 800 trang sách, nhưng chỉ có hơn một trang mà chúng tôi trích dẫn bên trên mới là cốt lõi mong muốn của ông - mà cũng là mong muốn của tập đoàn Việt gian cộng sản.
   Nói tóm lại, ông muốn cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản, dù đã thoát khỏi nanh vuốt của thực dân đỏ hãy tự nguyện làm bò sữa cho tập đoàn Việt gian cộng sản!!!
   Khi hạ bút thảo kế hoạch lập 4 loại "Quỹ tình thương" nói trên có bao giờ ông đọc lại và suy nghĩ về cái kế hoạch đó không?
   Thành thật mà nói, xin ông đừng tự ái, chúng tôi nghĩ rằng ông viết "hướng hoạt động chính trị cho cộng đồng người Việt ở hải ngoại" như nêu trên trong lúc tâm thần không ổn định.
   Cái cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản này phải để lại mồ mả, tài sản của nhiều đời tích lũy, họ hàng ruột thịt, quê hương làng xóm để ra đi, chấp nhận trung bình 3 người đi thì một người làm mồi cho cá cùng bao cảnh kinh hoàng còn hiển hiện trong giấc ngủ. Tới quê mới lại phải nai lưng ra cày, cố gắng thích nghi mới có đô la Mỹ gửi về giúp thân nhân.
   Chắc ông và cấp trên của ông nghĩ rằng cái cộng đồng đó khi vượt biển nghe phải lời ca của quỷ biển "Si-la và Ka-ríp" nên trở thành con bò rồi sao? Cho nên ông được cử đi làm thuyết khách (kiểu Tô Tần thời Đông Chu bên Tàu) để dụ khị bò tự nguyện cho sữa?(!!!)
   Nhân dân Việt Nam thường nói với nhau rằng, nói đến cộng sản là đồng nghĩa với ngu và ác. Sau những năm nếm mùi cộng sản, chúng tôi thấy cần phải đính chính lại:
   Cộng sản là tụi đại lưu manh, đại bất lương. Còn nhân dân Việt Nam nói chung, nhất là miền Nam Việt Nam thì lại quá lương thiện, nên dễ bị lưu manh lừa (mà vẫn chưa chịu rút kinh nghiệm, chóng quên, chóng tha thứ). Dùng chữ ngu đối với cộng sản là hoàn toàn sai. Nếu có lợi cho chúng thì không một thủ đoạn tàn bạo, bỉ ổi nào mà chúng không dám làm. Vì thế chúng tổ chức cho - như ông đã viết -: "vợ tố chồng, con tố cha, con dâu tố bố mẹ chồng, anh chị em đấu tố nhau"(83); tổ chức vượt biên để thu vàng, bán tàu, bến bãi và giết dân.
   Là đảng viên cộng sản kỳ cựu, làm sao ông chẳng thuộc lòng bài bản mà họ Hồ, học từ Lê-nin, dạy cho toàn đảng rằng: "Nếu có lợi cho cách mạng (tức Nga-xô), sẵn sàng ôm hôn kẻ thù".
   Chúng chỉ tin ở bạo lực, cho nên muốn trừng trị cộng sản thì phải tước công cụ bạo lực của chúng hay nói một cách khác là vô hiệu hóa công cụ chuyên chính (tức lính, công an và tòa án), chứ không phải là lập 4 cái Quỹ "tình thương" như nhà thuyết khách cộng sản Bùi Tín xúi dại cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản tự nguyện làm bò sữa, tự tay vắt sữa mình dâng cho tập đoàn thực dân đỏ!!!
   Ông khuyên những người Việt tỵ nạn cộng sản nên góp mỗi tháng một ngày lương cho 4 cái Quỹ gọi là "tình thương đó". Và, ông cũng nêu đối tượng nhận tiền của Quỹ "tình thương" gồm cả thương binh vừa và nặng của lực lượng vũ trang thực dân đỏ!(?)
   Ông quên thực hay cố tình giả vờ quên cái số phận của thương phế binh QLVNCH còn ở trong nước. Họ vì ai mà bị tàn phế? Họ có vượt vĩ tuyến 17 ra phía Bắc đâu! Họ chiến đấu bảo vệ nước Việt Nam Cộng Hòa, là mảnh đất được qui định qua hiệp định Genève 1954 về Việt Nam. Cái hiệp định đó ra đời cũng từ tham vọng làm tay sai cho Nga-xô và Tàu cộng của tập đoàn Hồ chí Minh. Và, cũng chính đại diện của tập đoàn Hồ chí Minh và đại diện Nga-xô, Tàu cộng cùng long trọng ký kết xác nhận sự phân chia đó.
   Thương phế binh QLVNCH là nạn nhân của cuộc xâm lược đỏ. Tụi xâm lược đã đàn áp và phân biệt đối xử không chỉ bản thân thương phế binh QLVNCH mà lây sang cả con cái, cha mẹ, họ hàng. Mồ mả của quân, cán, chính VNCH bị tụi xâm lược san bằng - chính ông cũng thừa nhận.
   Cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản là đồng bào, đồng hương, đồng đội, là kẻ chịu ơn của thương phế binh VNCH, cho đến tận giờ phút này (2003) cũng chưa trả được hàm ơn đó là bao. Bây giờ ông lại yêu sách người Việt tỵ nạn cộng sản làm cái việc như của tội phạm để bồi thường chiến tranh. Tài sản nhiều đời tích lũy phải để lại cho những tên xâm lược mạnh khỏe; bây giờ lại lú lẫn hay sao mà nhịn ăn, nhịn mặc, còng lưng cày để bù trì cho kẻ xâm lược bị què cụt không đủ sức tranh giành chiến lợi phẩm? Bọn họ đã có chính sách ưu đãi, ưu tiên, có lương bỗng, có đoàn thể của tụi xâm lược đỏ giải quyết. Nếu bị bạc đãi, thiếu thốn thì càng tốt, vì như thế sẽ giúp họ mở mắt nhận diện được kẻ thù chung của nhân dân Việt Nam là tập đoàn Việt gian cộng sản. Từ đó trong họ, ai là đảng viên thì hãy trả lại thẻ đảng, hãy hô hào con cháu, họ hàng, đồng hương, đồng đội để ai ở trong đảng thì xin bỏ đảng; ai chưa nhập đảng thì tẩy chay không nhập đảng v.v… Chính họ cùng với đồng đội trong tổ chức cựu chiến binh, cùng với nông dân bị mất đất, công nhân bị mất việc hoặc bị bóc lột tàn bạo và tiểu thương, dân nghèo thành thị, học sinh, sinh viên. Mới có điều kiện và đủ sức đấu tranh bất bạo động làm tan rã hàng ngũ đảng cộng sản, giác ngộ lực lượng vũ trang quay về "trung với nước, hiếu với dân" như tôn chỉ ban đầu; quyết không làm công cụ của tập đoàn Việt gian cộng sản chóp bu, phản bội nhân dân, phản bội tổ quốc và sẽ phản bội lại chính tương lai bản thân và của các thế hệ con cháu.
   Nếu thương phế binh cộng sản thấm thía cả cuộc đời bị tập đoàn Hồ chí Minh lừa dối để mất cả tuổi đời, hạnh phúc, máu thịt thì họ dễ dàng lấy hình ảnh bản thân làm tấm gương kêu gọi đồng đội trong Hội cựu chiến binh, đồng đội đang tại ngũ tẩy chay đảng Việt gian cộng sản, kết hợp với đấu tranh đòi quyền công bằng về kinh tế, phúc lợi xã hội của các thành phần bị áp bức khác, chắc chắn cái xương sống của chế độ thực dân đỏ là quân đội, công an, tòa án sẽ sụp đổ.
   Chỉ khi nào tách rời công cụ chuyên chính khỏi sự thao túng của tập đoàn Việt gian cộng sản chóp bu thì mới có thể nói đến dân chủ, tự do và công lý.
   Nếu không, cuộc đấu tranh dân chủ hóa Việt Nam sẽ bị lũ cơ hội ở trong và ngoài Việt Nam coi là một "thương vụ" kiếm danh và kiếm lợi. Và, nhân dân Việt Nam, trong đó có bốn loại đối tượng mà ông Bùi Tín kêu gọi cho hưởng phần của "Quỷ tình thương" sẽ mãi mãi bị lăn trong cơn lốc của các thế lực dân chủ cuội!
   Chính vì tụi Việt gian cộng sản chóp bu thao túng công cụ chuyên chính nên ngay: "Dân chủ trong Đảng cộng sản Việt Nam là con số không, ở trong xã hội cũng lại là một quả trứng lớn"(84). Và, ông còn giải thích rõ hơn, rằng: "Đây là nền dân chủ của một nhóm người, nền dân chủ của một người!"(85)
   Tổ chức nào trên thế giới, chứ chẳng cứ gì ở Việt Nam, nếu lấy hệ tư tưởng cộng sản làm mục tiêu đều trở thành phản dân chủ. Hãy nhớ lại cách giải thích về "dân chủ tập trung" của Hồ cho Nông thị Trưng, đại ý: "Dân chủ là của rất quý của mỗi người. Dân chủ tập trung là các cô, các chú đưa của quý đó cho Bác giữ hộ. Bác cho vào rương và khóa lại". Thế nghĩa là Hồ thâu đoạt tất cả "dân chủ" vào cá nhân hắn quản lý "hộ". Đương nhiên, cả xã hội, chẳng ai còn "của rất quý" đó nữa!         
   Cho nên cái nguy hiểm thâm độc của những người "tự nhận là đấu tranh cho dân chủ" ở Việt Nam mà vẫn giương cái bẫy phản dân chủ Hồ chí Minh làm mục tiêu thì cái dân chủ đó sẽ chắc chắn được cất trong két sắt (vì Hồ giảng bài học dân chủ đó khi còn ở Cao-bằng, chưa có quyền lực), làm sao lại có thể đi tìm dân chủ bằng "chủ nghĩa Hồ chí Minh", bằng đi theo người dùng "chủ nghĩa Hồ chí Minh" dẫn đường!!!
   Toa thuốc ông kê cho cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản chỉ là cách thuyết phục mọi người vô tình thành "công dân của CHXHCN Việt Nam", có nhiệm vụ đóng thuế dưới chiêu bài "qũy tình thương", một thứ thuế thu nhập (vì mỗi tháng đóng một ngày lương như ông đề nghị) chưa kể tự nguyện đóng thêm.
   Tập đoàn Việt gian cộng sản tiếm quyền thống trị cả nước Việt Nam, chúng thu thuế đủ loại; chúng nhận viện trợ từ các qũy của Liên hiệp quốc; các tổ chức từ thiện trên thế giới; chúng nắm trọn mọi nguồn tài sản của nhân dân - kể cả con người lẫn đời sống tâm linh. Cho nên chúng có bổn phận và trách nhiệm phải chi cho các "qũy tình thương" mà ông nêu ra.
   Nếu cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản mơ hồ về chữ "thiện" của ông (Bùi Tín), có nghĩa ngoài việc hàng năm gửi về giúp gia đình hàng trên 2 tỷ USD, nay lại đóng thuế cho tập đoàn Việt gian cộng sản dùng dập tắt những ngòi nổ có thể làm sập chế độ thực dân đỏ. Phải chăng ý ông muốn như vậy?!!!
   Bốn đối tượng mà ông Bùi Tín nêu lên cho hưởng "Qũy tình thương", cùng gia đình của họ, đã, đang và vẫn sẽ là lực lượng cực kỳ quan trọng vùng lên đòi quyền sống, đó chính là cửa ngõ của dân chủ hóa đất nước.
   Những người tỵ nạn cộng sản đã phải trả cái giá như thế nào để có được tự do như ngày nay. Chính họ đã "phải tự cứu mình" rồi trời, người mới giúp cho. Vì thế, bốn đối tượng mà ông (Bùi Tín) nêu lên để hưởng "Quỹ tình thương" cũng phải tự cứu mình trước. Nghĩa là phải đòi hỏi tụi cầm quyền giải quyết bằng mọi cách. Cộng đồng người Việt hải ngoại chủ yếu làm cái việc đánh động dư luận quốc tế. Có như vậy bộ mặt "giả chính nghĩa" của tập đoàn Việt gian cộng sản mới bị nhân dân thế giới và toàn dân Việt Nam cả trong và ngoài nước nhận diện được để thống nhất gây sức ép quốc tế về mọi mặt kết hợp với đấu tranh ở trong nước. Chỉ có ở cái thế bị cả trong và ngoài cùng dồn ép thì tập đoàn Việt gian cộng sản buộc phải "đổi mới" trọn vẹn để khỏi bị loại bỏ.
   Còn nghe ông (Bùi Tín) mà hà hơi, tiếp sức cho chúng bằng thiết lập 4 qũy tình thương, thì thà cứ nôm na gọi cho đúng tên là "4 loại thuế đánh vào những người nhẹ dạ hoặc ngu lâu", đỡ vòng vo tam quốc!
   Thí dụ cụ thể:
   - Báo Lao động điện tử ngày 3-1-2002 đưa tin từ năm 1990 tập đoàn Việt gian cộng sản tỉnh Thừa Thiên đã đầu từ hơn 3 tỷ đồng để làm nhà lưu niệm cho tên tướng lê-dương Nguyễn chí Thanh.
   - Báo Nhân dân điện tử ngày 3-1-2003 đưa tin bọn chúng lại duyệt một kinh phí là 4,56 tỷ đồng nữa để xây dựng tượng đài cho tên tướng lê-dương Nguyễn chí Thanh.
   Ba tỷ của năm 1990 theo thời giá hiện nay, chí ít cũng trên 10 tỷ. Nghĩa là cả hai lần chúng lấy tiền của dân Thừa Thiên hàng 15 tỷ, chi riêng cho việc lưu danh tên Nguyễn chí Thanh, (tương đương 1 triệu USD). Sao không rút ở đó ra 10 ngàn đô-la chi cho mầm non của đất nước?
   Thế mà, vừa qua từ Huế viết thư ra hải ngoại xin cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản 10 ngàn USD để trả lương cho hơn 100 các cô giáo dạy trẻ, nếu không các trường học phải đóng cửa!!!
   Tại sao không kiến nghị cho tụi tiếm quyền; không gửi đơn cho quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc v.v… để vạch mặt tập đoàn thực dân đỏ. Nếu cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản mà giúp thì sẽ thành tiền lệ để phải giúp các nơi khác nữa, ngoài Huế. Và, sẽ giúp đến bao giờ? ở những lớp học đó cô giáo có dám dạy cho các em rằng nhà nước cộng sản đã trốn trách nhiệm, các lớp học còn tồn tại là nhờ tiền đóng góp của những người tỵ nạn cộng sản không?
   Như vậy là, cái thế hệ tương lai đó lại tiếp tục bị mơ hồ về tội ác của tập đoàn Việt gian cộng sản.
   Một người dù có được học hành mà không được giác ngộ quyền công dân của mình thì lớn lên cũng trở thành trí nô mà thôi! Chỉ có hại chứ chẳng ích gì cho đất nước Việt Nam!
Không được quên quá khứ. Phải ghi nhớ hận thù.
   Vấn đề đặt ra là: giải quyết quá khứ và hận thù làm bài học lịch sử cho các thế hệ nối tiếp tỉnh táo trao sinh mệnh chính trị và việc quản lý đất nước vào tay những đại diện hội ứng mọi tiêu chuẩn cần thiết.
   Từ "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" cho đến "Mây mù thế kỷ" ông đã có nhiều thay đổi tích cực trong suy nghĩ.
   Và, trong "Một phương án đổi mới trình đồng bào cả nước", ông tuyên bố từ bỏ 9 huân chương kháng chiến, quân công, chiến công, chiến sỹ vẻ vang do đảng cộng sản Việt Nam khen thưởng. Đó lại là một bước tiến mới nữa trong nhận thức của ông về thực trạng Việt Nam từ 1945 đến nay.
   Tuy nhiên, chúng tôi thấy còn nhiều điều mơ hồ, không minh bạch trong cách lập luận của ông. Chúng tôi mong muốn được làm rõ những điều đó. Vì thế, xin khép lại ở đây những ý kiến của chúng tôi về hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" của ông.
   Trong kỳ tới, chúng tôi xin được nêu lên những nghi vấn, những chỗ còn chưa rõ ràng trong tập "Mây mù thế kỷ" của ông.

BÀI 5: NHỮNG TÊN ĐẶC CÔNG ĐỎ: KHÔNG ĐƯỢC QUÊN QUÁ KHỨ !

LT: Trích trong sách và loạt bài viết :“Những tên đặc công đỏ trong phong trào đòi hỏi dân chủ cho Việt Nam“, của tác giả nhà báo Việt Thường, vạch mặt tên tội phạm đặc công đỏ Việt gian cộng sản Bùi Tín và những tên Việt gian giả danh đội lốt Cộng sản và lũ tay sai theo lệnh của gian đảng VGCS giàn dựng màn kịch đòi hỏi đấu tranh dân chủ…cuội đểu giả.
.
Theo nguồn: nhabaovietthuong.blogspot.com
Vietnam - Buddhist




Bài 5- Không được quên quá khứ!

 


   Chính nhờ truy tìm quá khứ mà ngày nay chúng ta có đủ nhân chứng, đủ tài liệu để chứng minh cho hiện tại và các thế hệ tương lai của Việt Nam hiểu rõ nguyên nhân sự tụt hậu của Việt Nam so với các nước láng giềng; sự mất đất, mất biển; tài nguyên thiên nhiên bị tàn phá, truyền thống của dân tộc bị xóa bỏ, bị lai căng; những đặc tính đặc thù của dân tộc bị tàn lụi; lịch sử dân tộc bị xuyên tạc; cộng đồng dân tộc chia rẽ; đầu óc sùng ngoại rất đáng lo ngại; sự hình thành cộng đồng người Việt gốc phía Bắc ở trong Nam; sự hình thành cộng đồng người Việt ở hải ngoại v.v…
   Cái nguyên nhân đó chính là sự ra đời của cái gọi là đảng cộng sản Đông dương (1930) và hiện nay là sự tồn tại của đảng cộng sản Việt Nam!
   Cho nên, những kẻ kêu gọi quên quá khứ đều nằm trong các thành phần sau đây:
 
   1) Tập đoàn Việt gian cộng sản đang tiếm quyền thống trị ở Việt Nam;
   2) Tụi tay sai cho tập đoàn Việt gian cộng sản, theo "voi hít bã mía";
   3) Tụi có quyền lợi hoặc đang âm mưu tìm quyền lợi qua việc câu kết với tập đoàn Việt gian cộng sản;
   4) Những người thiếu thông tin trung thực về cộng sản, nghĩa là bị ngộ độc thông tin bởi những ngòi bút hoặc táo bón thông tin, hoặc vô trách nhiệm và, cuối cùng là những ngòi bút bất lương;
   5) Những người khiếp sợ bạo quyền, cúi đầu trước danh lợi.

   Kêu gọi quên quá khứ có nghĩa là xóa bỏ môn sử học, khảo cổ học v.v… như kiểu Hồ chí Minh, khi nắm quyền thống trị Việt Nam, đã xóa bỏ bộ môn luật, xóa bỏ bộ tư pháp chăng?
   Việc làm đó có lợi cho ai và hại cho ai?
   Cho dù với động cơ nào đi nữa, việc kêu gọi quên quá khứ là một hành động bất lương, phản khoa học!!!
 
Thưa ông Bùi Tín,
 
   Ông có biết tại sao các kết luận của ông trong 2 cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" luôn luôn mâu thuẫn với hình ảnh sống động mà ông mô tả không? Và, có lúc ông bế tắc để kêu lên rằng: "Tôi chẳng sao lý giải nổi nữa!"(40) Cái điều ông không thể lý giải nổi đó là:
 
   * Tại sao Hồ chí Minh khúm núm, ngoan ngoãn chấp hành mọi ý kiến của Stalin và Mao!
   * Tại sao Hồ cùng toàn đảng cộng sản Việt Nam lại có "một thái độ thụ động vô lý, mất hết khả năng phản kháng và tự vệ!”(41)
   * Tại sao những "Triết cố vấn", "Triệu cố vấn" và "Vương cố vấn" chuyên ngồi dựa vào ghế bành lớn, ưỡn bụng ra phía trước, có lúc gác đại cả 2 chân lên bàn, tay cầm ly rượu mao đài, nhổ nước bọt ồn ào xuống đất, để phán bảo cho những người nắm vận mệnh của đất nước Việt Nam. Thật thê thảm cho đất nước này!(42)
   * Tại sao: "Ngay cả khi đảng phạm tội giết bừa hàng chục ngàn sanh mạng nhân danh chủ nghĩa Mác-Lênin và cách mạng vô sản, thì đảng vẫn cứ là vĩ đại! Đảng vĩ đại ngay cả trong sai lầm khủng khiếp nhất."(43)
   * Tại sao: "Dân chủ trong Đảng cộng sản Việt Nam là con số không, ở trong xã hội cũng lại là một quả trứng lớn!"(44)
   * Tại sao là chủ tịch nước kiêm chủ tịch đảng mà: "ông Hồ không có toàn quyền quyết định. Có một thế lực cao hơn ông! Ông Mao." (45) Vì: "trong thế giới cộng sản, quan hệ anh em là quan hệ chỉ huy, lãnh đạo. Lời khuyên, gợi ý bao giờ cũng được hiểu ngầm là mệnh lệnh."(46) Và, ông cũng viết rằng: "Cuốn tóm tắt lịch sử Đảng cộng sản Liên-xô dày cộp, khổ lớn, hơn 600 trang, do Stalin đích thân duyệt và sửa, do nhà xuất bản Sự thật in đi in lại đến hơn chục lần, là cuốn sách gối đầu giường của các cán bộ cộng sản cấp cao ở Việt Nam. Cuốn sách này được ông Hồ chí Minh dịch ra tiếng Việt khi ông còn ở trong hang Pắc-bó, tỉnh Cao-bằng."(47) và v.v…
   Rồi ông lớn tiếng tự hỏi: "Và cách mạng, hy sinh, chiến đấu để làm gì?"(48)
 
Thưa ông Bùi Tín,
 
   Nếu ông truy tìm quá khứ, cố nhớ lại quá khứ (như những điều ông đã mô tả lại trong 2 cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" của ông) với tinh thần phản tỉnh thật lòng, nghĩa là đúng thì nói và viết là đúng; sai thì nói và viết là sai; đừng lo sợ về việc "tự phủ định chính mình về tất cả mọi mặt"(49) thì ông đã có thể thanh thản giải đáp được mọi thắc mắc và cởi bỏ hết bế tắc trong đầu. Mọi chuyện rất đơn giản. Cái không đơn giản nằm ngay trong đầu ông. Đó là viết "Mặt thật" bằng một nửa con tim; nhìn "Mặt thật" bằng một mắt nhắm, một mắt mở! Cho nên "Hoa xuyên tuyết" của ông vẫn còn bị chìm trong tuyết, chưa trồi lên được khỏi mặt tuyết!!! Giống như phần bên kia của Mặt Trăng, không thể quan sát bình thường được, cũng không thể hư cấu rằng bên này có Cuội và Cây đa thì bên kia có vợ Cuội và Cây đề. Phải dùng vệ tinh, khách quan và khoa học mới thấy được trọn vẹn mặt thật!
   Cái phần còn thiếu nghiêm trọng trong "Mặt thật" của ông là, trước khi phơi bày cái "Mặt thật" thì, ông vẫn sử dụng nhãn quan của một người cộng sản, coi việc Hồ chí Minh du nhập chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam là do lòng yêu nước và mục tiêu lý tưởng của đảng cộng sản là đúng, chỉ có cán bộ làm sai!(?)
   Nếu ông nhớ lại quá khứ thì ông sẽ thấy rằng, cho đến ngày xuống tàu xuất ngoại, Hồ chí Minh chưa bao giờ tham gia một phong trào yêu nước nào. Đặt chân tới Pháp, việc đầu tiên của Hồ là làm đơn xin học ở trường thuộc địa. Vì bị khước từ, Hồ mới lang thang kiếm sống và may mắn gặp các cụ Phan văn Trường, Phan chu Trinh, Nguyễn thế Truyền khai tâm cho Hồ về lòng yêu nước và cho Hồ dùng cái tên chung của cả nhóm là Nguyễn ái Quốc. Những trí thức tiền bối đó đã dẫn dắt Hồ vào con đường chính trị, để rồi Hồ gia nhập đảng Xã hội của Pháp và sau đó tham gia vào nhóm phân hóa thành đảng cộng sản Pháp mà cả Hồ lẫn cái tập đoàn cộng sản Việt Nam của Hồ vẫn tự hào. Khổ quá, ông đương kim tổng thống Pháp Chirac được bầu ra chắc chắn cũng nhờ nhiều lá phiếu cửa cử tri gốc Việt. So sánh như thế, hy vọng ông hiểu cho.
   Bước vào hoạt động chính trị, người nào cũng xuất phát từ cái chung và cái riêng. Có người thì cái chung là chủ đạo và lấn át hoặc triệt tiêu cái riêng. Ngược lại, có kẻ thì cái riêng nhanh chóng tiêu diệt cái chung. Hồ chính là loại người như vậỵ
   Là một người dân ở xứ thuộc địa, Hồ được công khai và tự do hoạt động chính trị giữa thủ đô của "tên Đế quốc, thực dân"; tự do thành lập cái tổ chức để tiêu diệt "đế quốc, thực dân", chẳng lẽ Hồ không có khả năng phân biệt với cái "Mặt thật" ở Nga-xô, là nơi Hồ chỉ được phép tuân lệnh tuyệt đối.
   Với động cơ yêu nước thì cái "Mặt thật" ở Nga-xô khi ấy không thể hấp dẫn Hồ được.

   Hồ bước chân tới Nga-xô là lúc Lê-nin chết. Ma to, cỗ lớn, cái lăng chình ình ở Quãng Trường Đỏ của Lê-nin thật hấp dẫn đối với Hồ. Đó là lý do Hồ một lòng một dạ với Nga-xô, với "lãnh tụ" Stalin. Bởi chỉ có dựa vào cái mẫu quốc đỏ này, Hồ mới hy vọng trở thành cái bóng của Lênin - Stalin ở Việt Nam. Nghĩa là, khi cái tên Nguyễn ái Quốc đổi sang cái tên Nga là Line, thì Hồ đã chấp nhận đưa Việt Nam vào vòng chư hầu của Nga-xô. Từ đó, mọi hoạt động của Hồ đều do động cơ vị kỷ cá nhân dẫn dắt. Hồ đã bán cụ Phan Bội Châu cho mật thám Pháp; đã phá cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thái Học; đã ngoan ngoãn nghe lệnh Nga-xô đổi tên đảng cộng sản Việt Nam thành đảng cộng sản Đông dương. Và, như ông cũng đã viết, khi ở hang Pắc-bó (Cao bằng), Hồ đã cần mẫn dịch cuốn tóm tắt lịch sử đảng cộng sản Liên-xô, cũng như cuốn Tỉnh ủy bí mật (cũng của Nga-xô) làm tài liệu học tập cho đảng viên cộng sản. Và, hành động Việt gian cụ thể nữa là chưa cầm quyền mà dám đặt tên dòng suối chảy qua Pắc-bó - một bộ phận lãnh thổ của Việt Nam - là Lênin!!!
   Như vậy là cái tên của đảng cũng do Nga-xô đặt cho; tài liệu vỡ lòng cho đảng viên học là lịch sử đảng cộng sản Liên-xô - chứ không phải lịch sử Việt Nam - và mọi đường lối, chính sách đều do Nga-xô và Tàu cộng chỉ đạo. Hồ và cái đảng cộng sản của Hồ chỉ biết vâng, dạ, chấp hành, cho dù tổn hại tới sinh mạng, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, truyền thống văn hóa dân tộc của Việt Nam v.v…
 
Thưa ông Bùi Tín,
 
   Bộ mặt Việt gian của Hồ và cái tổ chức gọi là đảng cộng sản Việt Nam đã rõ rành rành như vậy, mà vì động cơ cá nhân, ông không dám "tự phủ định chính mình" nên mới bế tắc la lên rằng: "Tôi chẳng sao lý giải nổi nữa!"(50) Nhưng rồi, con người trung thực của ông lại bắt ông phải thừa nhận một "Mặt thật" mà rất nhiều người chỉ vì quên quá khứ nên không thấy, rằng:
 
   "Vai trò của chính phủ kháng chiến (tức Chính phủ Liên hiệp) là sâu và rộng." Tổ chức của chính phủ rất gọn, nhẹ. Các bộ trưởng, thứ trưởng phần lớn là chuyên gia, trí thức, trong đó số còn ở ngoài đảng, có thực quyền không phải là ít. Đó là các ông Phan Anh, Trần đăng Khoa, Nguyễn Xiển, Nghiêm xuân Yêm, Tạ quang Bửu, Trịnh văn Bính, Lê đình Thám, Hoàng minh Giám, Trần duy Hưng, Phan kế Toại, Lê văn Hiến, Đặng phúc Thông, Nguyễn văn Huyên, Tôn thất Tùng, Trần hữu Tước, Trần công Tường, Trần đại Nghĩa, Hồ đắc Di." (51) Và, ông viết tiếp: "Chính quyền mới ở Nam bộ được tuyển chọn trong những trí thức yêu nước khá xuất sắc. Đó là ông Phạm văn Bạch, chủ tịch ủy ban kháng chiến hành chánh Nam bộ, từng đậu tiến sỹ luật học và cử nhân văn khoa ở Pháp về; bác sỹ Phạm ngọc Thạch tốt nghiệp y khoa Paris; giáo sư toán học Phạm Thiều; giáo sư văn học Ca văn Thỉnh; giáo sư vật lý Đặng minh Trứ được đào tạo ở Pháp; kiến trúc sư Huỳnh tấn Phát; nhà luật học Trần công Tường; Kỷ sư Nguyễn ngọc Nhật và kỹ sư Nguyễn ngọc Bích tốt nghiệp trường Bách khoa Paris; kỹ sư công nghiệp Kha vạng Cân; nhà luật học Phạm ngọc Thuần (anh ruột của đại tá Phạm ngọc Thảo); luật sư Thái văn Lung. Ông Phạm văn Chương, đốc phủ sứ Sài-gòn nổi tiếng về am hiểu luật pháp và thanh liêm cũng tham gia chính quyền mới.(52)
   Rồi ông cũng thừa nhận một "Mặt thật" khác, đó là: "Hồi ấy, ở Việt Bắc, cái thế chính trị của anh "Nhân", tức ông Trường Chinh, còn khá là khiêm tốn. Vai trò của Đảng còn chưa sâu, chưa rộng."(53)
   Nghĩa là, trước khi Tàu cộng làm chủ lục địa (1949), trước khi Hồ lén lút sang Tàu cộng và Nga-xô để xin chỉ thị của Stalin và Mao, thì như ông nhận định:

-
Vai trò của Chính phủ Liên hiệp "là sâu và rộng" (54);
- Vai trò của Đảng (tức cộng sản) "còn chưa sâu, chưa rộng".(55)

   Rồi khi Tàu cộng làm chủ lục địa, cuối năm 1950 Hồ lén lút qua gặp Mao và qua Nga-xô gặp Stalin, để đến 1951 cho ra mắt trở lại cái gọi là đảng cộng sản Đông dương dưới một cái tên hiền lành hơn: "đảng Lao động Việt Nam"
   Nắm được lực lượng vũ trang rồi, Hồ cho đảng cộng sản, công cụ tay sai của Nga-xô và Tàu cộng tái xuất giang hồ để thi hành đường lối chính trị Việt gian để lái cuộc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thành cuộc xâm lược đỏ bằng:
"Trí, phú, địa, hào
Đào tận gốc, trốc tận rễ"
   Chỉ có khác là không nói huỵch toẹt như vậy, mà che đậy bằng những mỹ tự cách mạng!!! Đó là "đấu tranh chính trị" (tức diệt trí thức, sau đó đợt 2 gọi là cách mạng văn hóa tư tưởng, điển hình là vụ Nhân văn - Giai phẩm); "Truy thuế công thương" (tức diệt phú thương, đợt 2 làm năm 1960 gọi là cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh); "giảm tô, giảm tức" (tức là diệt nông dân, địa chủ; đợt 2 gọi là cải cách ruộng đất); và "chấn chỉnh tổ chức", tức diệt hào, các đợt tiếp nối là "chỉnh huấn mùa Xuân" và "ôn nghèo nhớ khổ". Nghĩa là cày lên, bừa lại toàn xã hội!
   Một đất nước tồn tại, phát triển độc lập, tự chủ được chính là dựa vào bốn tầng lớp xã hội nói trên. Nay tất cả bị tiêu diệt, bị tha hóa, biến chất thì xã hội còn lại cái gì?
 
Thưa ông Bùi Tín,

Xã hội chỉ còn lại:

   1) Công cụ của đế quốc đỏ Nga-Tàu dùng cai trị xứ thuộc địa đỏ. Đó chính là đảng Việt gian cộng sản.
   2) Các tầng lớp nô lệ đỏ. Đó là trí nô, công nô, nông nô và binh nô.
 
   Ngay từ lúc đặt chân tới Nga-xô (1924) Hồ đã tự nguyện làm Việt gian, tay sai của Nga-xô nên lúc chưa nắm được chính quyền đã âm mưu hãm hại những người yêu nước (cụ Phan Bội Châu là một thí dụ, cùng hàng 100 thanh niên khác với gia đình, họ hàng, bạn bè của họ mà Hồ đã qua Lâm đức Thụ, bán cho mật thám thực dân Pháp). Đến khi tham gia vào Chính phủ Liên hiệp, Hồ vẫn tiếp tục hãm hại, vu cáo, bôi nhọ những người yêu nước (như Lý Đông A, Trương Tử Anh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Trần Trọng Kim và thậm chí cả Phan văn Hùm, Tạ thu Thâu! Để rồi khi có cơ hội (Tàu cộng làm chủ lục địa cuối 1949), Hồ đã tuân lệnh mẫu quốc đỏ mà thanh trừng, khủng bố, làm thoái hóa toàn bộ nhân sự mà đại đa số không là cộng sản trong Chính phủ Liên hiệp mà ông thừa nhận là chuyên gia, trí thức, đang có vai trò sâu và rộng trong công cuộc lãnh đạo của Chính phủ Kháng chiến.
   Với lòng dân lúc đó "tự tay đốt nhà kháng chiến chống Pháp", với sự cộng tác chân thành và hiệu quả của các nhân sỹ, trí thức, đảng phái, tổ chức tôn giáo v.v… Nếu Hồ không cam tâm làm Việt gian, tay sai cho Nga-Tàu, thì Việt Nam chắc chắn thành Hổ, thành Rồng từ lâu, đâu phải mất đất, mất biển cho Tàu cộng; dầu hỏa cho Nga cùng những món nợ è cổ cho các thế hệ sau!!!
   Tất cả những sự việc nêu trên ông đều thấy và hiểu rõ ràng, cặn kẽ.
   Nhưng, ông còn chưa đủ dũng cảm để thừa nhận rằng:

   1) Hồ chí Minh từ đầu tới chân là một tên đại Việt gian;
   2) Đảng cộng sản Đông dương trước kia, nay mang tên đảng cộng sản Việt Nam, là một tổ chức Việt gian; xưa là tay sai tự nguyện cho Nga-xô và Tàu cộng; nay là tay sai của Tàu cộng và các thế lực tài phiệt khác.
 
   Chính vì ông đã có 47 năm phục vụ trong cái tổ chức Việt gian đó nên ông không dám gọi đúng tội danh của nó, cho dù ông đã day dứt thốt ra: "Công nhận một lầm lỡ, quả thật không dễ dàng, nhất là khi quả tạ của quá khứ còn quá nặng."(56)
   Cho nên ông đã a dua kêu gọi: "Quên Quá Khứ!!! Xóa bỏ hận thù”

   Những kẻ kêu gọi quên quá khứ cũng là tác giả của vế thứ hai: xóa bỏ hận thù.
 
Thưa ông Bùi Tín,
 
   Ông có thấy việc kêu gọi "quên quá khứ, xóa bỏ hận thù" là một điều hoang tưởng, không thực tế và chẳng có ai, chẳng ở đâu thi hành được. Xin lấy ngay trường hợp của ông làm một thí dụ.
   Cả hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" của ông đều chủ yếu nói về quá khứ. Gần thì vì sao ông lên đài BBC để phổ biến "Kiến nghị của một công dân"; xa thì nói những chuyện từ thuở cụ thân sinh ra ông lúc hàn vi; rồi chuyện chính phủ của cụ Ngô Đình Diệm "giết những người yêu nước" (chữ nghĩa của ông chỉ những tên khủng bố nằm vùng ở miền Nam Việt Nam, sau hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, thi hành chủ trương bạo lực như nghị quyết 15 (khóa 2) của tập đoàn Việt gian cộng sản).
   Nói thẳng ruột ngựa ra thì ông cũng như những kẻ kêu gọi quên quá khứ, xóa bỏ hận thù là chỉ muốn một phía thực thi cái điều lẩm cẩm đó mà thôi (chẳng lẽ lại nói là ngu cho chính xác). Cái phía phải thực thi đó chính là nạÏn nhân của cuộc chiến tranh do tập đoàn Việt gian cộng sản tiến hành.
   Cái phía phải thực thi đó là nạn nhân của lũ chủ hàng, thành phần thứ ba đã đâm sau lưng những người chống xâm lược mà quan trọng nhất là quân lực Việt Nam Cộng hòa!
   Chưa một ai được nghe rằng Nhân dân miền Nam và Nhân dân miền Bắc hận thù nhau để phải quên!
   Chưa một ai được nghe rằng nhân dân Việt Nam ở hải ngoại và nhân dân Việt Nam ở trong nước hận thù nhau để phải quên!
   Loại trừ những người Việt Nam bị bệnh tâm thần mới không biết rằng ai là tác giả bịa chuyện "đấu tranh giai cấp" để kích động sự hận thù "giả tạo" trong cộng đồng xã hội Việt Nam; kêu gọi "bạo lực cách mạng" để tạo ra hận thù đổ máu trong cộng đồng xã hội Việt Nam; thực thi chính sách ưu đãi giai cấp để phá hoại đoàn kết, hận thù cha truyền con nối trong cộng đồng xã hội Việt Nam; sản xuất ra các cụm từ "dân tề", "dân ngụy" để chia rẽ cộng đồng xã hội Việt Nam.
   Tác giả những tội ác đó chính là Hồ chí Minh và cái đảng Việt gian cộng sản. Và, ngay trong tổ chức Việt gian cộng sản của chúng, chúng cũng bịa ra "xét lại" và "giáo điều" để tìm cách hạ bệ nhau, tranh nhau độc quyền làm tay sai cho mẫu quốc đỏ (và bây giờ là Tàu cộng và các loại tài phiệt). Chúng bới móc lý lịch ba, bốn đời của nhau; moi móc mọi loại quá khứ từ tư tưởng, ngôn ngữ, sinh hoạt đến tín ngưỡng để kích động, nuôi dưỡng một sự hận thù mù quáng.
   Đó là lý do vì sao tên ông là Bùi Thành Tín, vì muốn tránh liên quan với "quan lại phong kiến" phải bỏ cái họ Bùi để chỉ còn Thành Tín. Và, ra hải ngoại một thời gian dài mới hoàn hồn để nhận lại cái họ Bùi mà thành Bùi Tín. Và chắc ông cũng nhớ vì sao Quang Đạm (57) ở báo Nhân dân bị biến mất; bí thư tỉnh ủy Nguyễn từ Thoan lên và xuống cũng như sao chổi; và đại tướng Võ nguyên Giáp của ông thì phụ trách "đặt vòng chống thụ thai" v.v. Khi tranh ăn, chúng moi quá khứ của nhau để hận thù và xóa sinh mạng chính trị của nhau!!!
   Tại sao bây giờ tác giả của việc moi quá khứ, kích động hận thù lại quay một trăm tám mươi độ?
   Đó là vì, sau khi đảo chính âm thầm Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến, tập đoàn Việt gian cộng sản đã lèo lái cuộc kháng chiến chính nghĩa chống thực dân Pháp thành chiến tranh giành thuộc địa giữa thực dân đỏ Nga-Tàu với thực dân Pháp bằng xương máu của nhân dân Việt Nam. Sau khi chiếm được miền Bắc Việt Nam, chúng đã bần cùng hóa toàn dân, tập trung nhân lực, vật lực, tài lực vào tay tập đoàn Việt gian cộng sản các cấp và lại bắt đầu tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam Cộng Hòa và đặt ách thực dân đỏ lên cả hai miền Bắc và Nam Việt Nam từ 30-4-1975. Sự giao lưu Nam-Bắc đã cho nhân dân Việt Nam ở hai miền nhận diện được đâu là chính, đâu là tà. Và, một cuộc vượt biên tỵ nạn cộng sản xâm lược ở cả hai miền của Việt Nam đã làm chấn động lương tri toàn thế giới.
   Cộng đồng người Việt ở hải ngoại hình thành. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa thoát thai từ những thành phần ly khai khỏi bàn tay dra-cu-la Hồ chí Minh từ 1948. Đó là lực lượng chống xâm lược đỏ đầu tiên của Việt Nam. Đó là lực lượng duy nhất chống xâm lược: cả thực dân Pháp; cả Việt gian cộng sản, công cụ xâm lược của thực dân đỏ Nga-Tàu; và cả ngay chính quân xâm lược Tàu cộng trong việc bảo vệ hải đảo (1974). Thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa còn ở Việt Nam vẫn bị khốn khổ, phân biệt đối xử, trả thù hèn hạ từ 4-1975 đến nay là gần 30 năm của đời người!!!
   Quân lực VNCH đã đổ nhiều máu xương để bảo vệ an toàn, tự do cho nhân dân Việt Nam, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc.
   Quân lực VNCH được đào tạo chính qui, nghệ thuật chỉ huy và tác chiến sắc bén và hiệp đồng. Từ sỹ quan đến chiến sỹ đều tận tụy và dũng cảm.
   Ấy thế mà lại có ngày quốc hận 30-4-1975!!!(???) Tại sao?
   Ngoài nguyên nhân quốc tế ra, lỗi lầm quốc hận không do những người cầm súng mà do những người cầm bút, những người làm chính trị!
   Những người cầm súng đã hoàn thành oanh liệt nhiệm vụ trước nhân dân và Tổ quốc. Biết bao nhiêu người đã hy sinh mạng sống; biết bao người đã tuẫn tiết như các anh hùng Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn Văn Long, Ngụy Văn Thà, Phạm Phú Quốc; biết bao người giữ khí tiết trong nhà tù của tập đoàn Việt gian cộng sản như trung úy Võ Văn Tưng; người tù kiệt xuất, đại úy Nguyễn Hữu Luyện; người tù bất khuất Lý Tống v.v.
   Còn những người làm chính trị? Nhiều kẻ ấu trĩ, sôi thịt như kiểu Hồ hữu Tường (xin treo cờ rũ khi Hồ chết); như Ngô công Đức, Kiều mộng Thu, Dương văn Ba, Nguyễn văn Kim, Nguyễn Khánh, Trần văn Đôn, Nguyễn văn Thiệu, Dương văn Minh v.v…
   Đáng buồn nhất là những người cầm bút. Họ đã trốn trách nhiệm cầm súng, tìm cách du học. Khi ở nước ngoài thì tham gia "nhóm sinh viên tả phái", khi về nước thì làm con cua để bàn ngang, "lập thành phần thứ ba" (điển hình là Đoàn viết Hoạt). Nhiều bậc khoa bảng chỉ lo bàn nhăng, bàn cuội (như giáo sư Nguyễn văn Trung, khen chủ nghĩa Marx) mà không chịu truy tìm quá khứ, phân tích hiện tại để chứng minh bộ mặt tay sai cho thực dân đỏ của tập đoàn Việt gian Hồ chí Minh, nêu cao cuộc chiến đấu chính nghĩa chống xâm lược đỏ của Quân lực VNCH. Mơ mơ hồ hồ, hết gọi là cuộc chiến quốc-cộng, rồi lại cuộc chiến ý thức hệ và còn dựng đứng ra cái gọi là nội chiến huynh đệ!!!(???)
   Không nhận diện được kẻ thù một cách rõ ràng trắng đen thì cường độ đánh địch không mạnh, hiệu quả đánh địch không đạt.
   Chính vì lẫn lộn giữa chiến tranh chống xâm lược với nội chiến huynh đệ nên mới dung túng và nuôi dưỡng dòng nhạc Việt gian Trịnh công Sơn đến mức phải tỵ nạn xâm lược ở hải ngoại rồi mà còn "bào chữa, thoa son" cho Trịnh công Sơn như những cây bút Đặng Tiến, Ngã Hạnh và còn thâu băng, truyền bá dòng nhạc bán nước đó. Cái dòng nhạc đó đã đâm vào biết bao trái tim của chiến binh VNCH!!! Và, Đặng Tiến còn có thể trắng trợn viết về việc chiều 30-4-1975, Trịnh công Sơn ôm đàn lên đài Sài-gòn do Việt gian cộng sản chiếm giữ để hát bài hắn sáng tác chào mừng những người anh em ngụy quân cộng sản xâm lược của hắn, mang tên "Nối vòng tay lớn", rằng: "Thật ra anh có hát hay không hát thì chế độ VNCH cũng tan rã". Ngồi tại Pháp viết câu đó, chắc có một lúc nào đó Đặng Tiến sẽ có thể viết: "Thật ra thống chế Pétain có lập chính phủ thân Hitler hay không thì nước Pháp vẫn bị quân phát-xít Đức chiếm đóng". Nói thật chứ, Đặng Tiến viết câu trên chỉ chứng tỏ đầu óc ngu tối, sau này con cháu Đặng Tiến xấu hổ về ngòi bút của cha, ông. Còn viết câu sau bị Tây bộp tai là cái chắc!

Thưa ông Bùi Tín,
 
   Cho dù hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" của ông có đưa ra nhiều hình ảnh về cái gọi là "chủ nghĩa cộng sản" mà Hồ áp dụng ở Việt Nam, nhưng những thực tế đó vẫn chưa làm ông giác ngộ rằng cái gọi là chủ nghĩa cộng sản đã, đang và sẽ chẳng mang lại lợi ích gì cho nhân dân và đất nước Việt Nam. Nó chỉ đem đến cho Việt Nam thân phận chư hầu của Nga-Tàu, hay, nói cho rõ hơn, nó đã khiến Việt Nam thành thuộc địa đỏ một cách tự nguyện.
   Nhờ khoác cái áo chủ nghĩa" này nọ mà ngay những người, đã và đang chống cuộc xâm lược đỏ, vẫn chưa gọi đúng tên của nó, nêu đúng tội của nó. Vì thế quần chúng nhân dân Việt Nam, bị mơ hồ theo, hiểu lầm rằng đây là cuộc chiến của hai quan niệm yêu nước, xây dựng nước khác nhau. Cho nên mới gọi là chiến tranh "quốc-cộng", hoặc nói toạc ra là chiến tranh "ý thức hệ" (nghĩa là cộng sản và phi cộng sản hay còn gọi là tư bản); để rồi còn lầm lẫn nặng mà gọi là chiến tranh "huynh đệ"!!!(?)
   Nhân dân Việt Nam đã không được cung cấp thông tin đầy đủ và cụ thể để có thể nhận diện được rằng Hồ và cái đảng cộng sản của Hồ đã tự nguyện gia nhập đạo quân xâm lược đỏ. Đó là lý do tại sao mọi đường lối chính sách áp dụng ở Việt Nam và ngay cả các nghị quyết của đảng cộng sản Việt Nam, kể cả nghị quyết của đại hội đảng, đều phải dựa vào các nghị quyết của Nga-xô hoặc Tàu cộng, từ kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao cho đến văn hóa, giáo dục v.v. mà soạn thảo ra, chứ không phải là dựa trên thực tế nhu cầu và quyền lợi của nhân dân và đất nước Việt Nam!
   Nói cho rõ hơn, nghĩa là mọi đường lối chính sách đối nội, đối ngoại do Hồ và đảng cộng sản Việt Nam soạn thảo và thực hiện ở Việt Nam đều nhằm phục vụ cho quyền lợi dài hạn và ngắn hạn của Nga-xô và Tàu cộng. Nghĩa là dù nhân dân Việt Nam phải đói, phải chết; đất đai, sông biển Việt Nam bị mất; tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam bị hủy hoại; truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam bị xóa bỏ; lịch sử Việt Nam bị bóp méo, xuyên tạc; uy tín của Việt Nam trên quốc tế bị giảm sút và v.v… đều không quan trọng trong tâm khảm của Hồ và tập đoàn Việt gian cộng sản. Trước đã như vậy. Nay vẫn như vậy. Và nếu bọn chúng còn nắm quyền cai trị Việt Nam thì cũng sẽ vẫn như vậy!
   Trong khi đó, ở miền Nam Việt Nam, các chính phủ Ngô đình Diệm, Nguyễn cao Kỳ cho đến Nguyễn văn Thiệu có nhiều khuyết điểm về mặt này mặt nọ, nhưng rõ ràng và chắc chắn là không dựa vào chương trình của các đảng Cộng hòa hay Dân chủ của Mỹ để vạch chính sách. Trong QLVNCH, không ít cố vấn Mỹ bị ăn đòn chứ chưa bao giờ có chuyện như "Triết cố vấn, Triệu cố vấn hay Vương cố vấn" được từ Hồ cho đến Trường Chinh, Hoàng quốc Việt v.v. khúm núm tuân phục một cách tuyệt đối! Và, về công khai trước dân, chưa ai nghe các vị đó bảo nhân dân Việt Nam gọi các lãnh đạo của Mỹ là "Cố" như Hồ, từ lễ đài Ba-đình bảo nhân dân Việt Nam "hoan hô cố Vorochilov"(58). Các đảng phái ở miền Nam Việt Nam, chưa có đảng nào lấy cờ Mỹ hoặc cờ của nước nào đó làm đảng kỳ như đảng cộng sản của Hồ lấy cờ Nga-xô làm đảng kỳ!!!
   Những thực tế đó đã chứng minh rằng hoàn toàn không có cái điều, mà từ lâu nhân dân của cả hai miền Nam và Bắc Việt Nam, gọi là hai cách yêu nước khác nhau - một theo kiểu cộng sản và một theo kiểu quốc gia. Sự thật rành rành là:

   * Kiểu cộng sản là bán nước, nô lệ của Nga-xô và Tàu cộng (bây giờ là Tàu cộng và các loại tài phiệt).
   * Kiểu quốc gia là chống xâm lược đỏ.
 
   Cần ghi nhớ rằng, kể từ khi Hồ cướp được quyền quản lý lực lượng vũ trang, đổi danh xưng từ Quân đội Quốc gia thành "quân đội nhân dân"; xóa bỏ tôn chỉ của lực lượng vũ trang, khi còn do Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến lãnh đạo, là trung với nước, hiếu với dân, để đưa ra tôn chỉ mới cho quân đội nhân dân là trung với đảng, thì thực tế lực lượng vũ trang đã thoái hóa thành ngụy quân. Đó là đoàn quân đánh thuê cho Nga-xô và Tàu cộng. Chúng mang hình hài Việt Nam, nhưng chúng là tụi vô tổ quốc, y hệt lính Lê dương của thực dân Pháp vậy.
   Tuân lệnh Nga-xô và Tàu cộng, Hồ dựa vào họng súng của ngụy quân, dựa vào tổ chức Việt gian mang tên đảng Lao động Việt Nam, Hồ thông qua các phong trào "đấu tố chính trị", "cải cách ruộng đất", "trăm hoa đua nở", "cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh", "chấn chỉnh tổ chức" để đảo chính âm thầm Chính phủ Liên hiệp. Hồ và cái đảng Việt gian của hắn đã trấn áp, hạ nhục, khống chế tiến tới thuần hóa và thoái hóa gần như trọn vẹn 100% những trí thức, chuyên gia không cộng sản, những nhân sỹ yêu nước, lãnh đạo tinh thần ở mọi cấp chính quyền, để lưu nhiệm họ sử dụng che mắt cả quốc tế lẫn nhân dân cả nước Việt Nam về bộ mặt bán nước, tay sai của thực dân đỏ Nga-Tàu của Hồ và bè lũ. Những nhân sỹ, trí thức, chuyên gia đó chỉ còn tồn tại theo kiểu "Hồn Trương Ba da Hàng thịt" làm lá chắn chính nghĩa cho Hồ và tập đoàn Việt gian của hắn lợi dụng thực thi các mục tiêu bành trướng của tụi bá quyền đỏ Nga-xô và Tàu cộng! Họ thành trí nô, cán nô các loại.
 
Thưa ông Bùi Tín,
 
   Do ông chưa nhận thức được "Mặt thật" này nên ông không lý giải nổi tại sao "quân đội nhân dân" lại có thể tàn sát nhân dân ở Huế (1968), pháo kích vào các trường học, chợ búa, bệnh viện, nhà thờ, đền chùa v.v. đàn áp đồng bào vùng cao, tàn sát giáo dân, tham gia "cải cách ruộng đất" và Hồ thì hạ quyết tâm "giải phóng miền Nam dù có phải đốt cả dãy Trường Sơn.". Tại sao những văn nghệ sỹ, trí thức một thời oanh liệt như Chế lan Viên, Xuân Diệu, Cù huy Cận, Thế Lữ, Lưu trọng Lư, Hoài Thanh v.v… lại trở thành hèn hạ, thơ văn toàn thứ kêu gọi "cắt đầu, mổ bụng"; Nguyễn đình Thi, Huyền Kiêu, Nguyễn đỗ Cung, Nguyễn xuân Khoát v.v. những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp ra sao, để rồi từ những năm 1952-53 trở đi hoàn toàn thành một con người khác. Rồi Phạm văn Bạch, Huỳnh văn Tiểng, Nguyễn văn Huyên, Trần duy Hưng, Nghiêm xuân Yêm, Nguyễn Xiển, Bùi Kỷ, Hồ đắc Dzi, Nguyễn tấn gi Trọng, Vũ đình Hòe, Phan Anh có thể nói là tất tần tật các trí thức, chuyên gia nổi tiếng cả trong và ngoài Việt Nam đều trở thành người nhộng!!! (nghĩa là nằm ngoan ngoãn trong kén). Và, những loại "đá cá lăn dưa" ào ào nhảy lên sân khấu chính trị, văn học nghệ thuật, khoa học kỹ thuật như Trần quốc Hoàn (tên trộm cắp ở quê đẻ), Trần danh Tuyên, Nguyễn công Hòa, Nguyễn Bắc, Mai Vi, Phạm Hồng, Hồ Trúc, Vũ đức Phúc, Vũ Khiêu, Phạm đình Sáu, Lê Điền, Hà xuân Trường, Ngô trọng Tỉnh, Hồng xích Tâm, Cù thị Hậu, Nguyễn thị Bình, Nguyễn thị Hằng, Đỗ Mười, Lê đức Anh, Vũ đình Liệu, Bùi huy Đáp, Vũ Quang, Lê khả Phiêu, Nguyễn văn An, Trương thị Mỹ Hoa và v.v.
   Nếu vì dân, vì nước, vì tương lai tốt đẹp của các thế hệ Việt Nam thì có đâu lại thuần hóa, thoái hóa các chuyên gia, trí thức, biến họ thành con vẹt, con nhộng và tất cả phải vô liêm sỉ hóa mới cho tồn tại!
   Chính vì cái chỗ đứng của ông với 47 năm phục vụ tận tụy cho cái tổ chức Việt gian cộng sản ấy nên ông cố thanh minh, bào chữa cho chúng và cũng là thanh minh và bào chữa cho cá nhân mình, khi ông hạ bút cố tình lập luận rằng: "Phần lớn đi làm chính trị là nhằm giành lại độc lập cho đất nước, tiến bộ cho xã hội. Họ chịu đựng những hy sinh, tổn thất trong đấu tranh, có khi bị bắt bớ, tù đày. Họ nhằm vào những giá trị mà họ tin tưởng, theo đường lối và biện pháp mà họ cho là đúng đắn. Họ lại phải tính đến những thế lực quốc tế, đến cuộc đấu tranh giữa những thế lực quốc tế ấy ở trong khu vực và trên thế giới. Và họ tìm chỗ dựa, tìm sự giúp đỡ và ủng hộ của bên này hay của bên kia, trong cuộc đấu tranh chính trị mà họ dựng lên hay tham gia".(59)
   Ông đi một "quả rào trước đón sau" như vậy để rồi lật bài, rằng:
 
   "Như vậy cho nên cần quan niệm một cách khách quan rằng: ở bên này hay ở bên kia, trong tổ chức này hay tổ chức khác, những người hoạt động chính trị trong thời kỳ lịch sử vừa qua đã có những cách yêu nước khác nhau, dẫn đến đường lối và biện pháp khác nhau. Trong đấu tranh quyết liệt đối địch nhau, họ coi nhau là kẻ thù và có những nhận định quá đáng về nhau. Nay lịch sử đã sang trang, cần nhìn lại với đôi mắt tỉnh táo, quý trọng nhau ở động cơ yêu nước, có thể phê phán nhau về đường lối và phương pháp, không nên giữ mãi hận thù kiểu sống mái và triệt tiêu nhau."(60)

   Trong hai đoạn văn trên của ông, chúng tôi thấy ông đã lẫn lộn rất trầm trọng khi viết rằng: "Họ nhằm vào những giá trị mà họ tin tưởng, theo đường lối và biện pháp mà họ cho là đúng đắn."(61)
   Viết như ông thì xin hỏi "những giá trị mà bọn Khơ-me đỏ đã tin tưởng, theo đường lối và biện pháp mà tụi Khơ-me đỏ đã cho là đúng đắn" có nên phê phán không?
   Và, chính ông khi đề cập đến "cải cách ruộng đất", "trăm hoa đua nở" của Hồ và đảng cộng sản của hắn, ông cũng phải phê phán là sai. Chỉ có điều ông cố nhắm mắt chạy tội cho bọn chúng bằng cách mỉa mai rằng các "Triết cố vấn, Triệu cố vấn, Vương cố vấn" xúi dại nên Hồ và cái đảng cộng sản của hắn chỉ có tội là nghe cố vấn xúi dại nên cả bọn đua nhau ăn!!! Cái giá trị mà Hồ và bè lũ tin tưởng rằng cưỡng bức nông dân "vợ tố chồng, con tố cha, con dâu tố bố mẹ chồng, anh chị em đấu tố nhau."(62) là biện pháp làm cho xã hội Việt Nam tiến bộ chăng? Hoặc như ông đã viết: "Sùng bái" mặt trời phương đông, nể sợ "thiên triều" Bắc kinh, ông Hồ đã truyền cho những người lãnh đạo khác ở quanh ông ta, cho cả đảng cộng sản (chúng tôi nhấn mạnh) một thái độ thụ động vô lý, mất hết khả năng phản kháng và tự vệ (chúng tôi nhấn mạnh)" (63). Đấy là biện pháp giành độc lập chăng?
   Chúng tôi xin trích ra đây cái mâu thuẫn của ông khi đề cập đến mục tiêu: "nhằm giành lại độc lập cho đất nước, tiến bộ xã hội của Hồ và tay chân khi biện pháp của chúng là cuối 1951, cho đảng cộng sản hoạt động trở lại với "Điều lệ đảng đã ghi lấy tư tưởng Mao trạch Đông làm nền tảng"(64), vì thế "dù có điều gì các học trò Việt Nam cảm thấy là lạ, kỳ kỳ, thậm chí vô lý. Cũng cứ phải cúi đầu vâng dạ mà chấp hành cho sớm."(65) (chúng tôi nhấn mạnh).
   Cái điều "là lạ, kỳ kỳ, thậm chí vô lý " đó chính là sự tàn sát nhân dân Việt Nam vô tội một cách cực kỳ dã man; tàn phá nếp sống truyền thống của Việt Nam; đảo lộn trật tự xã hội, tạo ra sự hận thù máu giữa cộng đồng nhân dân Việt Nam; phá hoại sản xuất của Việt Nam; tiêu diệt những thành phần nồng cốt và ưu tú của xã hội Việt Nam. Vậy mà, những người "làm chính trị nhằm giành lại độc lập cho đất nước, tiến bộ cho xã hội" đó, do ông nêu đích danh: "Trường Chinh, Hoàng quốc Việt, Lê văn Lương, Hồ viết Thắng"(66) lại dùng biện pháp "là lạ, kỳ kỳ, thậm chí vô lý."!!!
   Những điều "là lạ, kỳ kỳ, thậm chí vô lý." do các phái viên của Mao ra lệnh, theo ông ghi lại lời của Hoàng quốc Việt nói với ông rằng: "Đến bác Hồ biết là không đúng cũng không dám nói với họ!"(67) Thế thì độc lập ở chỗ nào?
   Và, ông nhân xét về Hồ như sau: "Ông đã để mặc cho nước của ông, đảng của ông bị một số kẻ nước ngoài lũng đoạn, lộng hành. Trên thực tế, ông đã từ nhiệm vị trí, trách nhiệm của mình."(68) Như thế không gọi là tay sai ngoại bang là gì!!!
   Sự việc ông viết ở trên về Hồ chí Minh rõ ràng là hoàn toàn trái ngược với mục tiêu "giành lại độc lập cho đất nước, tiến bộ cho xã hội", vậy mà ông chỉ dám kết luận "Đây là thái độ vô trách nhiệm."(69) Ông Bùi Tín ạ, ông đã cố tình lầm! Thái độ đó của Hồ là thái độ của một tên Việt gian, lưu manh nhất trong lịch sử Việt Nam. Việt gian một cách "tự nguyện" và lưu manh về bản chất!
   Trong hai cuốn sách của ông đều nói đến các nước Đông-âu, chư hầu của Nga-xô. Xin lưu ý với ông rằng, các nước đó xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng xích xe tăng của Nga-xô, sau thế chiến thứ hai. Nghĩa là bị cưỡng bức làm thuộc địa đỏ.
   Còn Việt Nam thì hoàn toàn ngược lại. Hồ đã từng bước đảo chánh âm thầm Chính phủ Liên hiệp đa đảng; xóa bỏ Quốc hội I và hiến pháp 1946; làm ngược lại Tuyên ngôn Độc lập 2-9-1945; tình nguyện làm tay sai cho Nga-Tàu; Việt gian hóa toàn đảng cộng sản Đông dương; lê dương hóa lực lượng vũ trang; bần cùng hóa toàn dân Việt Nam; biến Việt Nam thành tiền đồn bảo vệ Nga-xô, Tàu cộng và thực hiện chiến lược bành trướng của Nga-Tàu.
   Bằng chứng rõ ràng nhất là sau nhiều năm làm gián điệp cho Nga-xô ở Đông-nam-á, Hồ trở về Việt Nam, thì việc đầu tiên là đặt tên một bộ phận lãnh thổ Việt Nam là Lênin, và khi chết di chúc để lại vẫn kêu gọi bảo vệ Nga-xô!
   Những điều đó ông đều biết hết. Chẳng những thế, ông còn góp phần vạch trần ra trong hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật". Điều làm chúng tôi tiếc cho ông là đã lột xác cộng sản để làm một người yêu nước, nhưng ông lột xác chưa trọn vẹn, như con ve sầu sai lầm khi thoát xác, bị quăn hai cánh nên vẫn bám lấy gốc cây, không tung cánh bay được. Đó là ông viết một câu rất ngô nghê - kiểu thật thà lái cá giống - rằng: "Nay lịch sử đã sang trang, cần nhìn lại với đôi mắt tỉnh táo, quý trọng nhau ở động cơ yêu nước, có thể phê phán nhau về đường lối và phương pháp, không nên giữ mãi hận thù kiểu sống mái và triệt tiêu nhau."(70)