LTS:
Theo nguồn: (Hồn-Việt.co.UK.Online): Nói về 
      trí thức Việt Nam theo phò tá, ủng hộ, giúp đỡ tập đoàn Vgcs, từ khi chúng 
      còn thuở hàn vi "ăn lông, ở lỗ", như thời kỳ tên đại việt gian Hồ chí Minh 
      còn  chui ra chui vào nơi hang Pắc Bó cho tới nay, nhiều người cũng 
      có thắc mắc tương tự như tác giả: 
      "Tại 
      sao một bọn vô học, 
      hiếu sát và lưu manh, có đầy đủ tính 
      chất của một bọn cướp, 
      lại đã có thể nắm đầu những kẻ được đất nước nuôi dưỡng để lãnh 
      đạo, những kẻ “đầu đầy chữ, bụng đầy sách” có sự hiểu biết hơn người, và 
      là tinh hoa thời đại?"
      Câu trả lời đã được tác giả nêu ra trong câu hỏi của mình, nhưng chúng tôi 
      xin bổ túc một chút xíu cho đủ nghĩa bản chất của chúng, là vì chúng là lũ 
      việt gian, buôn dân bán nước cầu vinh. Vì bản chất Việt gian, nên đảng 
      CSVN có thể thực hiện những hành vi khủng bố tàn ác, dã man với đồng loại 
      mà ngay cả loài thú cũng không làm.
      Với ước mong 
      qua kinh nghiệm của những người đi trước, cùng lịch sử đau thương của dân 
      tộc, giới trí thức Việt Nam ở thế hệ hôm nay, sẽ không làm tay sai cho bất 
      kể thế lực đảng phái nào mà mang bản chất Việt gian, bán nước hại dân.
***
    
Lời
 tựa: 
Vietnam-Buddhist: 
Danh từ "trí thức" chỉ là một trong những vô số những danh từ đã thường "được" hoặc "bị" lạm dụng 
dùng sai lệch một cách vô tình hoặc cố ý. Danh từ "trí thức" trong Phật 
giáo nói về một cái "trí" đã "tỉnh thức". "Trí" thì có "thế trí" và 
"xuất thế trí" (Xin tạm dùng giản lược các danh từ chuyên môn thường 
dùng). Cái "trí" tiềm tàng đã tỉnh và "thức" dậy từ trong vô minh. Xét 
theo nghĩa "thế trí", thì "trí" ở đây mới chỉ là "có trí" vì "có học", 
đã có thể và mới chỉ có thể dùng để "phân biệt". Để tiến tới "hiểu" thấu đáo"chân lý" thì còn vô minh xa trời cách biển lấy gì mà nói mớ nói mộng. 
Cho
 nên theo nghĩa "xuất thế trí", tức là trí đã vượt thoát ra khỏi vô 
minh, thì những hạng "có học" dưới đây nói cho lịch sự còn là chúng sinh
 vô minh, trong đây đã có được một mống nào đáng  được gọi "có trí" ? 
huống gì là "trí thức". Vì có trí mà chưa thể thức, chưa sáng thì phải 
gọi "trí ngủ", hoặc "trí tối"..., vì còn bị vô minh tăm tối che lấp. 
Danh từ còn lợi dụng lừa đảo được thì còn gì mà lũ trí nô, trí gian, trí
 trá này không nhân danh cho được? Cho nên, thật nan giải, uổng công, đang khi chúng thích lạm dụng danh từ "trí thức" vì oai vì có giá mà không thể tự biết, lại lấy gì bảo chúng nên tự răn tự biết cho được? Cũng vì vậy, cho nên thằng Mao chệt Hán gian sau khi hắn giắt mũi đè cổ lừa được một lô một lũ bọn Tầu "có học" mà đầu óc vẫn tối om  nhốt chung cả vào cái rọ "cộng sản", liền phán rằng: "Lũ "trí thức" này sánh không bằng cục phân !". Thằng đại Việt gian Hồ Chí Minh là chó của Mao nên cũng lặp lại và sủa y chang giọng điệu của ông chủ nó. Vậy những người "có trí", đã hoặc chưa "thức", nhưng  không trí trá, quyết không làm trí gian, trí nô cho bọn gian đảng Việt gian giả danh đội lốt cộng sản phản dân hại nước thì phải nên tự gọi là gì? Là người Việt Nam có trí ngay thẳng, khiêm nhường lại không tự mình định nghĩa được chăng? Hỏi là trả lời rồi vậy.   
    
Tập
 đoàn đảng CSVN từ bản chất là Việt gian, chúng giả danh đội lốt cộng sản, gian 
manh, vô minh tàn bạo, tự nguyện quyết chí làm Việt gian lừa đảo, giết dân bán 
nước, tàn phá, phản dân tộc, tội ác tầy trời đã rành rành. Lại có một lũ "có học"
 giả câm giả điếc hùa theo, cùng chất chứa thêm tội ác làm Việt gian đó,
 ở đây chưa trực tiếp gọi chúng là Việt gian là còn vì có những lý do khác, chứ  gọi thẳng chúng là lũ tay sai của Việt gian CS hoặc đồng lõa, tòng phạm
 Việt gian CS thì có oan gì? "Trí thức" nào ở đây? Vì ở đây chưa luận rộng bàn sâu về sự chính danh và nguyên nhân nào làm cho lũ có học này tình nguyện làm Việt gian như thế, nên ở đây chúng tôi xin giới thiệu 
bài viết của tác giả  BX Canh dưới đây để đọc giả rộng đường dư luận. 
Trân trọng
    
Thay mặt nhóm điều hành Vietnam-Buddhist
    
      Trí Thức Theo Cộng
       
      
      BXCanh
       
       
      
      Có 
      người đã 
      cho rằng điều đáng ghi nhớ nhất trong thiên niên kỷ vừa qua của nhân loại 
      là sự hình 
      thành và sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản. Theo thiển 
      
      ý, 
      chẳng những đó là điều đáng ghi nhớ nhất, mà còn 
      là sự kiện lịch sử quan trọng nhất. Nhân loại chưa bao giờ bị thống khổ và 
      kinh hoàng như thế, với hàng trăm triệu người bị sát hại dã 
      man, bị đầy đọa xuống hàng súc vật, và thế giới nhiều phen đã 
      bị cộng sản đẩy đến bên bờ một cuộc chiến tranh nguyên tử. Nếu trí ngu con 
      người đã 
      tạo ra cái chủ nghĩa ác ôn này, thì 
      cũng chính trí khôn con người đã 
      nhận ra con quái vật đó, và tiêu diệt được nó. Một số người Việt Nam, thế 
      hệ cha anh của chúng ta hôm nay, đã 
      đi rước lấy cái chủ nghĩa giết người này về, gây tang thương máu lửa trong 
      gần một trăm năm qua, với những khổ đau chất ngất cho chúng ta, và con 
      cháu tới ngày nay. Trong khi tại cái nôi của chủ nghĩa này, người ta đã 
      chặt đầu con rắn độc cộng sản từ lâu, thì 
      chúng ta vẫn còn 
      đang bị nó xiết cổ!
       
       
      
      Tại sao?
       
      Chúng ta đã quằn quại, khổ công suy nghĩ, phân tích, xem tại sao tới nay 
      cộng sản vẫn còn 
      ngự trị trên nước ta, và đã có nhiều câu trả lời:
      Tại thời cơ chưa tới; tại dân trí ta còn kém, tại nền văn hóa Khổng giáo 
      đã khiến các sĩ phu chỉ biết cúi mặt tôn thờ chính quyền, dù là chính 
      quyền vô đạo lý 
      và bất nhân; tại chúng ta thiếu đoàn kết, tại cộng sản Việt được Chệt đỏ 
      chống lưng cho nó ngồi, tại chính sách Hoa Kỳ muốn duy trì 
      việt cộng để be bờ chống Tàu cộng tràn xuống Đông Nam Á v.v… Đồng 
      
      ý 
      với câu trả lời nào, là tùy sự suy nghĩ của mỗi người, và không phải là 
      mục đích của bài viết này. Điều tôi muốn trình 
      bày là tại đất nước ta, đã có một tầng lớp trí thức đem tài năng và uy 
      tín của họ, để phục vụ cho một bọn cướp tàn bạo nhất trong lịch sử, giúp 
      cho giặc quàng cái xiềng vô cổ dân ta, và chính bản thân họ đã lãnh 
      hậu quả của sự sai lầm đó ra sao.
       
      Tại sao một bọn vô học, hiếu sát và lưu manh, có đầy đủ tính chất của một 
      bọn cướp, lại đã có thể nắm đầu những kẻ được đất nước nuôi dưỡng để lãnh 
      đạo, những kẻ “đầu đầy chữ, bụng đầy sách” có sự hiểu biết hơn người, và 
      là tinh hoa thời đại?
       
      Tại sao trong lúc người dân ít học đã biết rõ 
      sự tàn độc và nhưng mưu đồ đen tối của lũ bịp cộng sản, thì
      
      
      có những nhà trí thức lại mê muội đồng hành với bọn đạo tặc và ca ngợi cái 
      ác? Thật là những câu hỏi làm đau đầu và khó trả lời!
       
      Chủ nghĩa cộng sản được một số cán bộ ít học đưa vào Việt Nam. Có nhiều lý 
      do để cho rằng bọn này chẳng hiểu gì 
      nhiều về cái chủ nghĩa mà chúng nó muốn gieo rắc. Xin đừng ai ngụy biện để 
      chứng minh rằng những ông Nguyễn Sinh Cung, Đặng Xuân Khu, Trần Phú, Đỗ 
      Mười, Lê Duẩn, … và hầu hết các cấp lãnh 
      đạo của Việt cộng, đã đọc và hiểu thấu đáo Tư Bản Luận! Nếu có ông trí 
      thức nào bỏ công đọc các kinh điển của chủ nghĩa Mac, rồi “phụ đạo” cho 
      các lãnh 
      tụ, thì với trình độ văn hóa tiểu học, các lãnh tụ đó có sức để hiểu 
      nổi không? Cụ Nguyễn Mạnh Tường, một người nằm “trong chăn” cộng sản, viết 
      cuốn Hồi Ký 
      Un Excommunié, đã mỉa mai bọn lãnh tụ cộng sản về sự mù tịt, không biết 
      chút gì về cái chủ nghĩa mà chúng cuồng tín. Thật ra, cho tới lúc này, 
      bọn đầu sỏ của Việt cộng trong cái gọi là Bộ Chính Trị, tự thâm tâm, đều 
      biết chúng chỉ là một bọn bịp.
       
      Chúng như một lũ mù đang dọ 
      dẫm tìm 
      đường đi để tự cứu! Cộng đảng đã từng sửa sai bao nhiêu lần, sửa lại theo 
      cái đã cho là sai, và cuối cùng đưa ra cái mô hình xã hội mà chính 
      chúng cũng không dám nói rõ là chúng đang rụt rè trở lại con đường tư 
      bản: Kinh Tế Thị Trường Theo Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa! Thế nhưng trong 
      khi đó, một số trí thức, ngay từ những ngày đầu, khi chủ nghĩa cộng sản 
      mới được du nhập xứ Việt, đã vội tung hô bọn cộng, giúp chúng gieo rắc 
      môt cái chủ nghĩa vô cùng tàn độc! Vẻ uyên bác, cùng với xảo thuật và 
      miệng lưỡi của đám trí thức theo cộng này, đã góp phần quan trọng cho sự 
      thành công của lũ chơi bạc bịp! “Xã hội không còn giai cấp; làm theo
      
      
      năng 
      lực, hưởng theo nhu cầu; phá tan biên cương loài người sống thân yêu …”, 
      những món hàng không tưởng đầy sự bịp bợm ấy, đã một thời được các ông 
      trí thức theo cộng say sưa truyền đạt, nay trở thành chuyện khôi hài vô 
      duyên, chẳng còn anh Cộng lớn, Cộng bé nào dám nhai lại. Không biết chúng 
      ta có nên gọi những ông có học, có bằng cấp cao, mà đầu óc đã ngừng suy 
      luận, hoặc chỉ suy nghĩ về danh, lợi, này là trí thức? Trí thức, như chúng 
      ta thường nghĩ, phải là kẻ hiểu sâu, biết rộng, phân biệt phải trái, là 
      tinh hoa chỉ lối cho người khác noi theo. Ngoài lãnh vực chuyên môn, 
      người trí thức phải biết quan tâm đến cái thể chế và tổ chức xã hội mình 
      đang sống, góp sức làm cho xã hội ngày một tốt đẹp hơn. Người trí thức 
      chỉ đường cho quần chúng noi theo, phải nhận chân được sự lương thiện và 
      sự bịp bợm. Có người sẽ coi lại: biển học thì mênh mông, các tổ chức xã 
      hội, thể chế chính trị thì phức tạp, ai mà dám cho mình là người biết 
      hết sự đời. Trong khi đó thì bọn Cộng sản là bậc thầy của sự bịp bơm và 
      là bọn điếm đàng quốc tế, được huấn luyện và dạy dỗ những phương cách vô 
      cùng xảo quyệt để lừa bịp. Vả lại, chúng tôi cũng không thích nghiên cứu 
      chính trị, nên không biết gì về chủ thuyết cộng sản. Ấy cũng là sự thường 
      vậy!. Thưa vâng, không ai biết hết sự đời! Ít 
      người muốn tìm hiểu về chính trị. Nhưng cái thể chế chính trị do một bọn 
      cướp áp đặt lên đầu mình, thì mình cần, và có bổn phận phải biết nó ra 
      sao chứ! Huống chi chủ thuyết cộng sản và những hậu quả khốc liệt của nó 
      trong gần một thế kỷ qua, trên khắp thế giới, thì không ai có thể chối bỏ 
      là mình không biết tới nó. Vả lại, nếu đã nhận mình không biết rõ về 
      cộng sản, thì lý do gì khiến mình đi theo nó, ca tụng nó? Một điều 
      quan trọng thiết thân đến đến chính ta, đến con cháu ta, đến xã hội mà 
      ông cha đã nghàn 
      năm vun đắp như thế, mà những kẻ được đời tôn xưng là trí thức lại nhắm 
      mắt tin theo. Không những chỉ hùa theo cái ác, các ông còn dâng hiến tài 
      năng và trí óc cho bọn dã 
      nhân, để chúng thêm nanh thêm vuốt, trong cái xảo thuật bịp bợm và cướp 
      đoạt chính quyền. Nếu trí các ông ù lì, 
      con tim hóa đá, không còn suy nghĩ, và vô cảm trước bao tang thương dâu 
      biển do cộng sản gây ra, thì các ông trí thức, cũng còn có đôi mắt, đôi 
      tai chứ? Có cần chi phải vận dụng tới trí thức uyên bác của các ông để 
      nghiên cứu xem cộng sản là gì! 
      Các ông phải thấy lũ dân đen mà các ông cho là ngu dại, do cảm tính, đã 
      biết ngay rằng chủ nghĩa cộng sản là con rắn độc, là tên bạo chúa tàn ác 
      chưa từng có trong lịch sử nhân loại.
       
      Đã 
      có bạo chúa nào trong cuộc đời ngự trị của hắn, tiêu diệt được cả trăm 
      triệu người vô tội? Bằng kinh nghiệm và cảm nhận, những kẻ mà các ông cho 
      là kém cỏi và vô học, những thằng dân đen, đã bỏ chạy cộng sản còn nhanh 
      hơn tránh dịch hạch! Biết bao lần người dân đã “bỏ phiếu bằng chân” khi 
      cộng sản tới. Chả lẽ các ông không còn cả một chút tò 
      mò 
      trẻ thơ để hỏi: tại sao người ta phải bỏ chạy như thế? Nếu mắt các ông 
      không mù, tai các ông chưa điếc, sao các ông không nhìn 
      thấy bao cảnh kinh hoàng, không nghe những lời than van kêu khóc xé trời, 
      rạch đất của người dân trong nanh vuốt giặc! Hay các ông không thích nhìn 
      gần, mà chỉ muốn viễn mơ về các khung trời xa lạ, để mở mang trí óc? Nếu 
      thế, các ông phải thấy hễ nơi nào có cái bóng dáng “xã hội chủ nghĩa”, là 
      nhân dân nơi ấy tàn mạt, xã hội nơi ấy điêu tàn! Đây là một sự thực hiển 
      nhiên, phơi bày trước mắt loài người lâu gần một thế kỷ; nhưng bọn trí 
      thức theo cộng dường như đã mù, và câm, nên không thấy, và không nói lên 
      được một điều gì!
      Danh từ trí thức tôi viết đây, không phải chỉ gồm có những người học cao, 
      văn bằng lớn, mà còn bao gồm cả những ông nhà văn, nhà báo, những người 
      có tên tuổi và địa vị trong xã hội, đã từng là ngọn đuốc hướng dẫn dư 
      luận một thời.
       
      Hồi còn là học trò nhỏ, và ngay khi đã theo học đại học, tôi luôn kính 
      sợ và cảm phục các ông có bằng lớn, các ông viết văn, viết báo, nghĩ rằng 
      mình chỉ nên dựa cột mà nghe, khi các sư, sĩ bàn luận chuyện quốc gia đại 
      sự. Nhưng trong trí óc non nớt của tôi lúc đó, đã thấy có những đám khói 
      mây mờ mịt của sự ngờ, khi thấy ông giáo sư này nói “gà”, nhưng ông tiến 
      sĩ nọ lại kêu “ vịt ”. Các ông trí thức tranh cải 
      nhau rất kịch liệt về nhiều vấn đề họ nêu ra. Nhưng riêng về chuyện tranh 
      cãi nhau giữa người theo và người chống cộng, thì bọn theo cộng đâu cần 
      đến chân lý. Các ông theo cộng thường né tránh lời tố cáo sự không tưởng 
      và tàn độc của cộng sản, bằng cách tố ngược lại những khuyết điểm và sai 
      lầm của phe quốc gia! Kiểu tranh luận cù nhầy này, rút lại chỉ là sự tố 
      cáo các sai lầm vớ vẩn giữa người quốc gia và những anh tập sự làm cán 
      cộng, làm nhạt nhòa 
      đi cái cốt lõi, 
      là sự không tưởng, sự tàn bạo kinh khiếp và nguy hiểm của chủ thuyết Cộng 
      sản.
       
      Bọn trí thức theo cộng, khi bị đuối lý trước những lý luận tố cáo sự bất 
      lương của họ, và trước những sự thực hiển nhiên sờ mó được, về sự sai lầm 
      và tàn độc của cái chủ nghĩa mà họ tôn thờ, vẫn nhơn nhơn, lì 
      lợm, lớn tiếng xưng tụng cộng sản. Họ nghĩ rằng lý của kẻ mạnh bao giờ 
      cũng sẽ là chân lý, và cộng sản là kẻ mạnh, là thế lực đang lên. Không 
      may cho họ, công sản không phải là kẻ mạnh, và lại là thế lực đang đi 
      xuống! Khi cái chủ nghĩa này lăn đùng, đột tử, ngay tại nơi nó phát sinh, 
      những anh theo cộng, nhất là những 
      anh đi hai hàng, lừng chừng đứng giữa, bỗng cảm thấy tẽn tò, 
      vỡ mặt, trước cái xác chết xú uế của chủ nghĩa cộng sản và một núi rác phó 
      sản của nó quá đỗi dơ bẩn, mà từ bao lâu các anh tôn thờ hôn hít. Nhiều 
      anh quay ra cải chầy cải cối: “Chủ nghĩa cộng sản theo lý
      
      
      thuyết, vẫn là chủ nghĩa rất tốt, có sức hấp dẫn. Chỉ khi thực hành mới 
      biết nó không như lý thuyết, và những sự sai lầm của nó, có thể do những 
      người thi hành và áp dụng cái chủ nghĩa ấy gây ra!”. Theo cái trí ngu đần 
      của tôi thì trên đời này không hề có cái lý thuyết nào đúng, mà khi đem 
      áp dụng, thì nó thành ra sai! Lại như nói rằng những sai lầm là do người 
      thi hành gây ra, tức là công nhận những tay tổ sư nhà Cộng như Lê Nin, 
      Stalin, Mao, Hồ… đều là kẻ đã áp dụng sai chủ nghĩa cộng sản. Nhưng nếu 
      những tổ sư nhà cộng mà còn không biết áp dụng sao cho đúng chủ nghĩa, 
      thì ai sẽ làm được chuyện đó? Hỏi như thế chỉ để vạch trần cái lý luận 
      gian manh của mấy anh theo cộng tới giờ thứ 25.
       
      Nhưng xin cho tôi trở lại với chủ đề bài viết: điểm qua một số trí thức 
      theo cộng và hậu quả mà họ nhận lãnh.
       
      1 
      
      - Trí Thức Nguyễn Hiến Lê.
       
|  | 
| Trí nô, tay sai Việt gian cộng sản Nguyễn Hiến Lê | 
 
       
      Học giả Nguyễn Hiến Lê, một người mà tôi rất kính trọng, trong Hồi Ký của 
      ông, cho biết ông đã đọc trước sau khoảng hai chục cuốn viết về cộng sản 
      Nga, Trung Hoa, Đông Âu. (Thực ra, người Việt chúng ta đâu có cần phải đọc 
      sách nhiều như thế, để biết cộng sản là cái gì! 
      Và tìm hiểu cộng sản qua sách vở, có khi đưa tới sai lầm gây ra đại họa. 
      Nhưng ông Lê là…học giả mà!). Ông Lê cũng được nhiều bạn di cư vô Saigon 
      kể cho ông nghe chính sách điền địa ở Bắc tàn nhẫn tới mức bỏ tù, giết cả 
      những người kháng chiến, có con ở trong kháng chiến, chỉ vì 
      họ có gần hai hecta đất, và bị liệt vào hang địa chủ bóc lột. Chính những 
      bạn của ông Lê cũng đã giúp kháng chiến, đều có lòng 
      ái quốc, đều là những người tốt, mà không thể sống ở ngoài đó được, phải 
      bỏ nhà cửa, họ hàng, mồ mả tổ tiên, vào Nam với hai bàn tay trắng, sống 
      chen chúc trong những khu lao động, can đảm lập lại cuộc đời. Và ông Lê, 
      sau khi đã nghiên cứu, biết rõ cộng sản như thế nào, ông biện minh cho 
      thái độ thân cộng của ông như sau: 
      “Tôi tuy ghét, tởm Stalin, Mao Trạch Đông…nhưng vẫn tin rằng chế độ cộng 
      sản công bằng hơn chế độ tư bản …, cộng sản Bắc Việt không thể nào tàn 
      nhẫn như Nga và Trung Hoa được! ”
       
      Và ông Lê kết luận bằng cách quơ cả đám trí thức vào phe của ông: 
      
      “ Đó là tâm lý chung của đa số trí thức Saigon, chứ chẳng của riêng tôi. ”
      
       
      [Hồi Ký 
      – Tập 3, trang 20, nhà xuất bản Văn Nghệ]. 
       
      Ông học “giả” khả kính, đọc thiên kinh vạn quyển, được tận mắt, tận tai 
      nghe các bạn thân ở Bắc thuyết trình cho nghe sự tàn bạo của bắc cộng, mà 
      ông vẫn “tin rằng ” và còn võ 
      đoán rằng “đó là tâm lý chung của đa số trí thức Saigon”, thì những ông 
      trí thức, học “thiệt” sẽ “ tin rằng” và có “tâm lý ” ra sao về cộng sản? 
      Sự suy diễn của nhà học giả - và của đa số trí thức Saigon, theo lời ông 
      Lê – cũng rất kỳ lạ, đến mức khó hiểu.
       
      Ghét Mao Trạch Đông, ghê tởm Stalin, nhưng lại tin rằng cộng sản Bắc kỳ 
      không tàn nhẫn như Nga, Tàu! Cộng sản Việt há không phải là một bản sao, 
      một thứ học trò hăm hở theo lời thầy, và tên đày tớ tuyệt đối vâng theo 
      lời chủ? Nếu đã nhận là Nga Tàu tàn bạo bất nhân, thì thằng tay sai là 
      Việt cộng, được các sư tổ cộng sản cầm tay chỉ việc, làm sao mà khác được? 
      Có khi bọn việt cộng còn muốn “vượt chỉ tiêu” của cha, anh nó về mức độ 
      tàn nhẫn và dã 
      man. Kìa, 
      hãy xem anh Pol Pot xứ Chùa Tháp, học trò yêu của Mao đã vượt Mao ra 
      sao về mức độ tàn bạo! Tại sao nhà học giả không dựa vào những điều mắt 
      thấy, tai nghe, những điều sách vở cung cấp cho ông, mà ông lại “tin rằng” 
      một cách vô căn cứ như thế? Chỉ sau khi việt cộng chiếm Miền nam, và thi 
      hành các chính sách tàn bạo, ông Lê mới vỡ mộng. Ông biện luận về sự sai 
      lầm của ông như sau: 
      “Muốn thấy một chế độ ra sao, thì phải sống dưới chế độ đó dăm năm. Muốn 
      nghe ai phê bình, khen chê gì thì nghe, muốn đọc sách gì thì đọc, dù là 
      người thông minh, chịu suy nghĩ, cũng chỉ biết lờ mờ một chế độ thôi.” 
      [Hồi KÝ – Tập III trang25-26]
       
      Phải sống dăm năm dưới chế độ cộng sản, rồi mới biết nó ra sao! Nếu cứ 
      phải sống dưới chế độ cộng sản dăm năm, để biết nó thế nào, rồi mới quyết 
      định chống nó hay theo nó, thì đây thật là một cuộc thí nghiệm điên rồ và 
      chết người. Khi bị cộng sản xâm chiếm, không nên chống cự, vì mình chỉ 
      biết lờ mờ về cộng sản. Hãy 
      để cho nó cai trị dăm năm, xem sao đã. Điều chắc chắn là khi biết nó ác 
      ôn, thì rất khó vùng vẫy khỏi tay nó, và nếu có thể, thì cái gíá phải 
      trả để thoát cùm gông sẽ đắt như thế nào! Tôi đọc nhưng lời ông Lê viết 
      trong cuốn Hồi Ký III, nhiều lúc bực mình không chịu nổi, về sự biện minh 
      rất kỳ cục của ông. Xin chịu ông Lê có tài biện luận, để xóa sự sai lầm về 
      thái độ thân cộng của ông. Nhưng trong khi ông học giả chỉ “ biết lờ mờ ” 
      về cộng sản, ông lại ca tụng nó, và thằng dân đen không có đến nửa chữ để 
      nghiên cứu nghiên cò 
      về cộng sản để lận lưng, lại quá biết cộng sản như thế nào, và chạy trối 
      chết để mong thoát tay nó! Còn 
      gì 
      khôi hài hơn không? Những ông trí thức theo cộng trong nước ngày xưa, và ở 
      hải ngoại bây giờ, đều có chung một “đức tính”: các ông luôn mang một bộ 
      mặt cao ngạo, nói, viết, những câu ngang dạ, ra điều ta đây là kẻ nhìn xa 
      trông rộng, dè bỉu những người chống cộng là thiển cận, là cực đoan, là 
      chụp mũ bừa bãi! 
      Khi chúng ta đang đổ xương máu để ngăn chặn một kẻ thù hung hiểm, thì các 
      ông viết báo, phát ngôn những lời xỏ xiên, châm chọc, tìm đủ mọi khe hở 
      để lách mũi dao nham hiểm vào lưng chúng ta, và tán dương cộng sản; nhưng 
      các ông không dại gì chạy ra bưng với giặc trong thời chiến, và ngày nay 
      cũng không rời bỏ tiện nghi vật chất và tự do ở nước ngoài để “về xây dựng 
      đất nước” như miệng các ông hô hào và tán tụng cộng sản. Mưu chước của các 
      ông trí thức này là làm thế nào để vẫn được sống yên thân trong sự bảo vệ 
      của chính quyền quốc gia, hoặc an toàn ở ngoại quốc, mà vẫn lập công được 
      với giặc, vẫn được một bọn lủng lẳng đứng giữa, tán tụng là có cao kiến! 
      Tệ hơn nữa, xưa cũng như nay, các ông luôn tranh đấu đãi quyền lợi, đãi 
      tự do nơi cái chính quyền mà lúc nào các ông cũng dài mỏ chê bai.
       
      Ông học giả Nguyễn Hiến Lê viết: 
      “Tôi vốn có cảm tình với Việt Minh, với cộng sản. Tôi khinh những chính 
      phủ bù nhìn của Pháp, Mỹ. Tôi phục tinh thần hy sinh, có kỷ luật của anh 
      em kháng chiến và mỗi lần có thể giúp họ được gì thì tôi sẵn lòng 
      giúp”[Hồi Ký 
      – Tập III, trang 17-18 ]
       
      Ông học giả phục cộng sản, khinh các chính phủ quốc gia “bù nhìn” nhưng 
      ông khôn lắm, ông cứ sống ở vùng quốc gia để an toàn, yên ổn ngồi soạn, 
      viết hơn trăm tác phẩm.
       
      Có khi nào ông học giả tự hỏi: Nếu ông “may mắn” được sống trong chế độ 
      cộng sản, ông có thể nào xuất bản được 100 tác phẩm? Ông cũng vờ vịt, làm 
      như không biết bọn Bắc cộng là tay sai của Nga, Tàu. Khi những kẻ mà ông 
      “sẵn lòng giúp ”, dùng thế lực và sự trợ giúp của cộng sản quốc tế, cướp 
      được miền Nam, như ông mong muốn, ông Lê đã trắng mắt, nhìn chúng cướp 
      tiền ông dành dụm trong ngân hàng, do ông khổ công dài lưng nặn óc viết 
      văn; chúng đã chiếm nhà ông ở Long Xuyên; chúng “treo bút” của ông, khiến 
      ông không còn cho được tác phẩm nào ra đời! Ông phải âm thầm xé một số 
      tác phẩm ông dầy công tra cứu, viết lách, thành giấy vụn. Ông cũng kinh hãi, 
      không còn dám nghĩ đến chuyện về thăm cố hương miền Bắc, thăm căn nhà ở 
      ngõ 
      Phất Lộc, tại Hà Nội, nơi có nhà mồ lão 
      quái “Hồ Chủ tịch mà tám chín phần mười người Việt kính mến” [Hồi Ký 
      tập III, tr 20], chỉ vì Miền Bắc nay đã tan hoang, sau khi việt cộng xây 
      dựng “thành công” cái mà chúng gọi là chủ nghĩa xã hội! Nhưng dù sao ông 
      Lê cũng còn lương thiện.
       
      Trong cuốn Hồi Ký – Tập III, ông đã thành thực mô tả cái xã hội xấu xa 
      mà bọn cộng đã áp đặt lên Miền Nam sau năm 1975, và tuy quá muộn màng để 
      hối lỗi, ông đã không tiếc lời mạt sát bọn cướp vô học khi chúng đã phô 
      trương hết sự bịp bợm và tàn ác, sau ngày thành công cướp đoạt chính quyền 
      Miền Nam. Vào lúc bọn việt cộng phải chọn “đổi mới hay là chết”, như chúng 
      nói, chúng đã cho in Hồi Ký 
      của ông Lê. Nhưng bản chất lưu manh cố hữu, chúng chỉ cho in nhưng phần 
      ông Lê đã lầm lạc khen chúng, và xóa đi những trang ông chửi cha chúng 
      nó. Việt cộng cũng lập lờ đánh lận con đen, để đồng bào hiểu lầm, là ông 
      học giả ủng hộ chúng, bằng cách đặt tên một con đường nhỏ, đâu đó trong 
      thành Hồ, là đường Nguyễn Hiến Lê. Tôi sở dĩ viết về ông Lê trước tiên, 
      vì ông là một người tôi ngưỡng phục. Ông Lê học giả mà còn hiểu về cộng 
      sản như thế, thì những ông, bà trí thức “học thiệt” khác, sẽ thờ cộng như 
      thế nào! Vâng, chúng ta hãy điểm qua vài ba trí thức khác, đã bán linh 
      hồn cho quỷ, để thấy “mỗi người một vẻ”, họ đã góp sức đưa cái xiềng cộng 
      sản và cổ dân ta như thế nào. Ông Nguyễn Hiến Lê mất ngày 22 tháng 12 năm 
      1984.
       
      2. - Trí Thức Nguyễn Mạnh Tường
|  | 
| Trí ngủ Nguyễn Mạnh Tường | 
        
       
      Nói tới tên ông, nhiều người Việt nghĩ ngay tới việc ông đỗ hai bằng tiến 
      sĩ, Văn và Luật tại Montpellier, Pháp trong một năm, lúc mới 23 tuổi. 
      Ngoài ra, người ta không nhớ ông đã làm được công nghiệp gì
      
      
      tương xứng với tài năng và công lao học tập! Điều đó không có chi lạ. Ông 
      đã theo “cụ Hồ” đi kháng chiến, và kể từ lúc ấy, đời ông kể như đã đi 
      vào ngõ cụt. Đã
      
      
      có quá nhiều sách báo nói về ông Nguyễn Mạnh Tường và những tháng ngày thê 
      thảm của ông và gia đãnh ông, dù bản thân ông chưa phải là trái chanh đã 
      hết nước trong tay Cộng. Nếu không đọc cuốn sách Un Excommunié do chính 
      ông viết, chúng ta khó tương tượng ông “lưỡng khoa tiến sĩ” này lại bị đau 
      nhục dưới tay “vượn người” như thế! Nhưng vì đâu nên nỗi?
       
      Hoàn cảnh lịch sử? Lòng yêu nước, hay sự bịp bợm của cộng sản đã đưa ông 
      vào thảm trạng?
       
      Năm 1936, cậu thanh niên 27 tuổi, với hai bằng tiến sĩ từ mẫu quốc hồi 
      hương, tương lai sáng rỡ như mặt trăng mặt trời. Cậu trở thành giáo sư 
      trường Lycée du Protectorat tức trường Bưởi, rồi cậu mở văn phòng 
      luật sư tại hai biệt thự tại thủ đô Hà Nội. Khi cộng sản cướp chính quyền, 
      cậu hào hứng hiến luôn cả hai biệt thự cho nhà nước. Kháng chiến bùng nổ, 
      cậu không ngại gian lao, xách khăn gói vào Khu Tư, tức Thanh Hóa theo 
      “Bác.”
       
      Chiến tranh tạm ngừng năm 1954, nhà trí thức lúc ấy đã mỏi mệt vì những 
      điều tai nghe, mắt thấy về Đảng và “bác”, nhưng cổ đã vướng tròng, 
      khó bề thoát ra. Trở về Hà Nội, ông được cộng sản ấn vào tay một lô chức 
      tước “phó”, vô danh và…vô thực luôn: Phó chủ tịch Hội Luật Gia Việt Nam, 
      phó Trưởng khoa Đại Học Sư Phạm, thành viên Hội Hữu Nghị Việt-Xô, v…v..
       
      “ Đó là các chức vụ hoàn toàn có tính cách lễ nghi, không hiệu năng mà 
      cũng chằng có thực quyền, đó là những chức vụ mà tôi chỉ là kẻ dư thừa.”
       
      Năm 1956, có phong trào đãi tự do, dân chủ của các báo Nhân Văn, Giai 
      Phẩm. Báo Nhân Văn đăng bài phỏng vấn ông Nguyễn Mạnh Tường. Ông vạch trần 
      tính chất phản dân hại nước của cộng sản: 
      “Đảng Viên đảng Lao Động và cán bộ thi hành chính sách thiếu tính thần dân 
      chủ, xa lìa quần chúng, tạo ra tình trạng đối lập quần chúng với mình… ”
       
       Dĩ nhiên, ông cũng còn tin cộng sản có thể sửa đổi được, và ông đề nghị 
      những biện pháp sửa đổi! Ngày nay, dù đã có một tay cộng sản gộc, chính 
      tông, là Boris Yelsin bỏ đảng và tuyên bố:
      “Cộng Sản không thể sửa đổi ”, 
       
      nhiều ông trí thức của ta vẫn tin rằng có thể dùng kiến nghị, thư ngỏ… để 
      thay đổi chính sách của Cộng sản. Cộng sản dĩ nhiên không thèm đếm xỉa 
      gì đến những đề nghị của ông Tường; nhưng lãnh đạo Cộng sản lại dương 
      những con mắt cú vọ quan sát, nhằm “chiếu tướng” ông trí thức. Ngày 30 
      tháng 10 năm 1956, ông luật sư, giáo sư, kiêm luôn bao nhiêu chức Phó và 
      Thành viên các hội, đọc một bài diễn văn tại cái gọi là Mặt Trận Tổ Quốc, 
      phân tích những khốc hại đẫm máu của việc Cải Cách Ruộng Đất, và đề ra 
      phương hướng để tránh mắc lại! Ông Trí thức lúc ấy chắc vẫn tin là cộng 
      sản mắc “sai lầm”, chứ không phải là chúng chủ tâm và tỉ mỉ hoạch định đủ 
      phương kế để giết người và cướp đất ruộng. Sau bài diễn văn với những đề 
      nghị này, nọ của ông, dây thừng quanh cổ ông được cộng sản xiết chặt lại. 
      Bao nhiêu chức tước vớ vẩn của ông được gỡ sạch. Ông bị đưa ra đấu tố tại 
      trường Đại Học cho học trò ông xỉ vả, mắng mỏ; ông bị ra trước Mặt Trận 
      Tổ Quốc để các “đồng chí” của ông đấu đá. Ông bị các đảng viên đảng Xã 
      Hội, một đảng bù nhìn do cộng sản nặn ra để trang trí cho chế độ, đấu tố 
      ông lần chót. Ông chống trả rất can trường, với lập luận sắc bén của một 
      luật sư có tài. Nhưng rồi ông đau khổ nhận rằng: 
      “Con cừu thì không thể lý luận với một con chó sói”. 
       
      Số phận ông đã được Cộng đảng quyết định: Bỏ cho chết đói giữa một sa mạc 
      hận thù không lối thoát. Ông than thở:
      “Tôi đã là kẻ lữ hành trong chuyến đi qua sa mạc kéo dài từ năm 1958 đến 
      năm 1990, hơn ba mươi năm dài đằng đẵng! Chìm trong vùng cát của sa mạc 
      tuyệt vọng làm cạn khô dòng nước mắt, tôi đã lê tấm thân bị tra tấn bởi 
      thiếu thốn cô đơn với quả tim rướm máu bởi nỗi buồn chua cay và vị đắng 
      của mật!” Trong ba mươi năm dài ấy, nhà trí thức sống ra sao?
       
      Ông kể lại:
      “Trước tiên, loại bỏ ngay buổi ăn sáng, một thói quen sa hoa của những 
      người tư sản.
       
      Tiếp đến, cá thịt từ từ biến mất trong những buổi ăn trưa và tố́i. Khẩu 
      phần cơm rau mỗi ngày một ít đi, và đến lúc mỗi ngày chúng tôi chỉ có một 
      bát cháo để ăn. Vợ và con gái tôi ốm đi trông thấy. Bao nhiêu sáng láng 
      đã biến mất trên khuôn mặt dài ra vì ốm đói.”
       
      Trong cơn khốn cùng như thế, gia đình ông Tiến sĩ “may mắn” có được một 
      con gà mái “mắn đẻ một cách đáng ngạc nhiên ”. Mỗi ngày con gà cho một 
      trái trứng, và mỗi người trong gia đình thay phiên nhau hưởng. Muốn cho 
      gà đẻ trứng, thì phải cho nó ăn. Khốn nỗi người còn sắp chết đói, lấy 
      đâu gạo, bắp cho gà! Nhà trí thức ‘phát huy sáng kiến’:
      “mỗi ngày, vào lúc hoàng hôn, khi chợ đã vắng người mua bán, tôi lượn 
      quanh để lén nhặt những mảnh rau vụn, tránh không để người qua đường nhìn 
      thấy, mang về nuôi nó”
       
      Thê thảm không còn gì để nói! Nhưng con gà, dù mắn đẻ, tất cũng không 
      nuôi sống nổi cả gia đãnh của ông tiến sĩ. Ông phải đau khổ, năn nỉ những 
      kẻ có tiền để họ mua những thứ ông có thể vơ vét ở trong nhà: sách vở, 
      quần áo của ông, son phấn, tóc giả của bà, muỗng nĩa trong bếp… Giống hệt 
      tình 
      cảnh của toàn dân miền Nam năm 1975 khi được cộng “giải phóng.” Ba mươi 
      năm vật lộn mỏi mòn, 
      chỉ để khỏi chết đói!
       
      Cộng sản đã trả công cho sự nhiệt thành và công lao hạn mã của ông bằng 
      cái đói và nhục. Nhiệt thành, say sưa, vì khi Cộng mới nổi lên, ông đã 
      đem tất cả nhà cửa hiến dâng cho đảng. Công lao hãn 
      mã, 
      vì ông đã lặn lội sang tận thủ đô Bruxelles của Bỉ, năm 1956, đem tài 
      hùng biện, chứng minh với Hiệp Hội Luật Gia Dân Chủ thế giới, là Bắc cộng 
      có “chính nghĩa” khi dùng súng đạn để “giải phóng miền Nam ” Nhưng xem tư 
      cách và sự phản ứng can trường của ông trong suốt 30 năm bị cộng mưu dìm 
      cho chết, chúng ta ngậm ngùi thương ông hơn là oán giận. Ông đã lạc đường 
      vào lịch sử và bị vây bọc trong hoàn cảnh khó khăn. Không khuất phục được 
      ông, bọn cộng vô học ghen, tức, đầy đọa 
      và hạ nhục ông.
       
      So sánh với những anh “trí thức” hải ngọai ngày nay, từng kinh hoàng bỏ 
      chạy khi cộng sản tới, lại được chứng kiến sự tan rã 
      tận gốc của cái chủ thuyết giết người tàn độc, mà vẫn xun xoe đưa đầu cho 
      cộng sai khiến, chúng ta phải kinh ngạc về sự “khả úy” của các “trí thức” 
      hậu sinh. Ông Nguyễn Mạnh Tường có lẽ đã trả được mối thù với bọn việt 
      cộng bằng cách mô tả sự tàn độc của chúng trong hai cuốn Hồi Ký 
      mà ông để lại cho đời.
       
      Ông đã thảnh thơi từ giã 
      cuộc đời ngày 13 tháng 6 năm 1997.
       
      3. Trí thức Dương Quỳnh Hoa.
       
|  | 
| Trí nô, việt gian cái, Tay sai Việt gian cộng sản Dương Quỳnh Hoa | 
        
       
      Bà Dương Quỳnh Hoa sinh trưởng trong tầng lớp thượng lưu của xã
      
      
      hội Việt Nam. Bà theo học y khoa tại Saigon rồi sang Pháp năm 1948 học 
      tiếp và đỗ bác sĩ năm 1953. Ăn phải bả Cộng sản, bà liên lạc với Cộng sản 
      Pháp, gia nhập cộng đảng vào cuối thập niên 1950 và hoạt động cho Cộng 
      trong thời gian ở Pháp từ 1948 đến 1954. Sau 1954, bà về Saigon nằm vùng 
      và do thám cho cộng. Năm 1960, được bọn Bắc cộng giựt dây, bọn theo cộng 
      miền Nam thành lập Mặt Trận Giải Phóng. Bà Hoa là một sáng lập viên của 
      cái Mặt Trận này. Năm 1968, sau vụ đại bại của cộng quân, mụ cùng chồng 
      trốn ra bưng với Việt cộng, và được cho làm Bộ Trưởng Y Tế. Trong thời 
      gian ở trong bưng, đứa con trai nhỏ của mụ đã chết vì bệnh sưng màng não. 
      Chồng bà là Huỳnh Văn Nghị được cộng dụ dỗ cho nhập Đảng; nhưng ông Nghị 
      nhận rõ bộ mặt thật của bọn giải phóng, nên tìm cách khước từ “vinh dự” 
      đó. Năm 1975, sau khi chiếm được Miền Nam, bọn Bắc Cộng ra tay xóa sổ cái 
      Mặt Trận Giải Phóng.
       
      Những anh chị trót bán linh hồn cho quỷ trong Mặt Trận, như các anh Nguyễn 
      Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Trương Như Tảng… và bọn lủng lẳng đứng giữa như 
      Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Lý 
      Quý 
      Chung, Lý 
      Chánh Trung… đều vỡ mặt, tẽn tò 
      như một lũ con nít bị lừa không được ăn kẹo! Chính bà Hoa sau này đã thú 
      nhận việc đi theo Cộng là một ảo tưởng chính trị trong đời bà. Ngày 17 
      tháng 10 năm 1996, khi được tờ báo Far Eastern Economic Review phỏng vấn:
      
      “ Quel est l’évenement le plus marquant pendant les 50 années passées?”
      Bà trả lời:
      “L’effondement du mur de Berlin qui a mis un term à la 
      
      “grande 
      illusion” 
      dịch tạm:
      
      Biến cố nào được kể là nổi bật nhất trong 50 năm qua? 
       
      Bà DQH: 
      Đó là sự sụp đổ bức tường Bá Linh và chấm dứt một “ảo tưởng lớn”
       
       Khi được Stanley Karnow phỏng vấn về sự thất bại của cộng sản Việt nam, 
      bà nói: 
      “Tôi đã là người cộng sản cả đời tôi. Nhưng bây giờ khi chứng kiến những 
      sự thật về chủ nghĩa cộng sản và sự thất bại của nó, quản trị kém, tham 
      nhũng, đặc quyền, áp chế, lý tưởng của tôi đã hết ”.[I have been a 
      communist all my life, but now I’ve seen the realities of Communist, and 
      it is a failure - mismanagement, corruption, repression. My ideals are 
      gone”] 
       
      Cuối thập niên 1970, bà nói với Nguyễn Hữu Thọ: 
      “Tôi và anh chỉ là những kẻ bù nhìn, là những món đồ trang sức rẻ tiền. 
      Chúng ta không thể nào phục vụ một chế độ thiếu dân chủ và không luật lệ.”
      
       
      Khi được phỏng vấn về bọn lãnh đạo Việt cộng, bà lạnh lùng trả lời:
      “Đó là những kẻ ngu si đần độn, bởi vì họ là cộng sản”. 
       
      Trong những câu bà Hoa nói trên, chúng ta nên chú 
      
      ý 
      đến câu 
      “Nhưng bây giờ khi chứng kiến những sự thật về chủ nghĩa cộng sản…”
       
      Đó chính là một lời thú nhận là: 
      dù học hành nhiều như bà, được sống trong một nước tự do như nước Pháp, có 
      thừa phương tiện tìm hiểu, nghiên cứu, bà đã không biết gì về chủ nghĩa 
      cộng sản! 
       
      Ngày 25/2/2006, người nữ cán bộ cộng sản đã góp công không nhỏ cho cộng 
      sản đặt cái ách khốn cùng trên đầu đồng bào của bà, lặng lẽ bị các oan hồn 
      chết vì giặc cộng, đưa về trước Diêm Vương để nghe phán xét tội lỗi. Cái 
      bạo quyền bà đã hy sinh hết tuổi thanh xuân và tài năng để dựng nên nó, 
      không có được một lời nói về bà. Mang “ảo tưởng ”, tự hiến mình làm “bù 
      nhìn, đồ trang sức rẻ tiền ”, “ không biết sự thật về cộng sản mà vẫn theo 
      chúng” thì kết quả đương nhiên chỉ có như thế.
       
      Các vị trí thức tiền bối như Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hiến Lê, Dương 
      Quỳnh Hoa, do hoàn cảnh lịch sử hoặc do sai lầm nhất thời, đã có lúc theo 
      cộng hay thân cộng. Nhưng khi nhận rõ bộ mặt phản dân hại nước của cộng 
      sản, họ đã có phản ứng quyết liệt. Trí thức Nguyễn Mạnh Tường đã dõng 
      dạc tuyên bố:
      “ Tôi không hề tham gia mặt trận Việt Minh. Bao giờ tôi cũng là một người 
      yêu nước, luôn luôn ưu tư đến việc giành lại độc lập cho đất nước. Tuy 
      nhiên tôi tự xác định cho mình một vị trí là làm một người trí thức. Mà 
      người trí thức, muốn độc lập, thì không nên tham chính. Người trí thức 
      phải đứng về phía nhân dân, chứ không đứng về phía chinh quyền.”
       
       Ông cũng đã can đảm nhận chịu 30 năm đọa đầy thê thảm chứ không đầu hàng 
      cộng. Khi thoát khỏi sự kiềm chế của Cộng sản, ông đã viết hai cuốn sách:
       
      Những trí thức nói trên, nhất là tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường, vẫn còn lưu 
      lại trong lòng 
      chúng ta sự ngậm ngùi thương tiếc. Còn 
      như cái loại trí thức của nợ dưới đây, và những loại trí thức hải ngoại 
      ngày nay như Nguyễn Hữu Liêm, Trần Chung Ngọc… thì chỉ để lại 
      lòng 
      khinh ghét vì sự ngu xuẩn và sự ham danh lợi của họ.
       
      
      4. Trí thức Ngô Bá Thành
       
|  | 
| Trí nô,Việt gian cái Phạm Thị Thanh Vân / Ngô Bá Thành | 
 
       
      Bà này tên thật là Phạm Thị Thanh Vân, con của ông Bác sĩ thú y Phạm Văn 
      Huyến. Sinh năm 1931 tại Hà Tĩnh. Mới 18 tuổi đã lấy chồng là ông Ngô Bá 
      Thành. Hai vợ chồng sau đó qua Pháp du học. Bà học luật, ông học thú y. 
      Năm 1957 bà đỗ tiến sĩ luật. Năm 1963 mụ về nước và bắt đầu những ngày 
      quậy phá đất nước. Năm 1970, mụ tự phong là “Chủ Tịch Ủy Ban Phụ Nữ Đòi 
      Quyền Sống”, cái tên nghe khá buồn cười, báo chí thời đó diễu là “phụ nữ 
      đòi quyền sướng”. Trong bối cảnh đất nước tan hoang vì đảo chánh, tranh 
      giành quyền lực, sư cộng sản Trí Quang đã tổ chức lễ ra mắt cái Quỷ ban 
      này tại chùa Ấn Quang, cho thấy rõ mạt cưa, mướp đắng dập dìu 
      với nhau. Vào thời gian đó, nếu có ai nói rằng mụ Thành và sư hổ mang Trí 
      Quang là cộng sản, ắt sẽ có nhiều ông bà trí thức theo cộng tru tréo kêu 
      oan dùm họ, và xỉ vả kẻ tố cáo đó là “chống cộng cực đoan, chụp mũ bừa 
      bãi. ” Trong suốt thời kỳ của của nền đệ nhị Công Hòa, mụ Bá Thành đã 
      quậy phá, biểu tình 
      liên tục. Huỳnh Tấn Mẫm, một tên cộng sản nằm vùng, viết về “công lao” của 
      mụ đối với bọn cộng nằm vùng như sau: 
      “ …Một lần tổng hội sinh viên của chúng tôi bị bao vây chặt đang lúc họp 
      bàn, triển khai phong trào đốt xe Mỹ ở 207 Hồng Bàng, cảnh sát vây kín 
      chung quanh, quay giây kẽm gai vòng trong vòng ngoài. Giữa lúc chúng tôi 
      đang nát óc nghĩ cách thoát khỏi, thì ai đó reo lên: chị Thành đến! Qua 
      hàng rào kẽm gai, chúng tôi thấy chị dẫn theo hàng ngàn (?) người, từ học 
      sinh, sinh viên, các ba má phong trào, đến tăng ni phật tử. Chị lớn tiếng 
      tranh luận với cảnh sát về pháp luật, hiến pháp, nhưng chúng vẫn không hạ 
      súng. Thế là chị ra hiệu cho mọi người ào lên giật súng, dùi cui, kéo dây 
      kẽm gai… Cảnh sát chạy mất, chúng tôi được giải thoát! ” 
       
      Bỏ đi những chuyện hoa lá cành, mô tả láo khoét của tên việt cộng Huỳnh 
      Tấn Mẫm, chúng ta còn 
      thấy được vài sự thực: Một trí thức có bằng tiến sĩ luật, đi “trâu đánh” 
      đãi quyền sống, mà hành động như một con nặc nô đi đánh ghen, và sự quá 
      mềm mỏng dễ dãi 
      của những người cảnh sát có nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự. Chúng ta 
      thua giặc vì chúng ta cư xử như một con người, trong lúc bọn cộng khát 
      máu lồng lộn, điên cuồng cắn xé như loài thú! Nay những ông trí thức co gìo 
      chạy trước khi nếm mùi nanh vuốt của cộng sản, vẫn như đi trên mây. Các 
      ông chửi người tị nạn, kẻ mất cha, người mất chồng, mất con trong trại tù, 
      trên đường vượt biển là bọn chống cộng cực đoan, hạ cấp, các ông nghĩ sao 
      về con mụ trí thức có bằng tiến sĩ luật đã cư xử điên cuồng đến mức khó 
      tưởng tượng như sau:
      “…Có lần bị bắt giam ở khám Chí Hòa, bị gọi lên lấy khẩu cung, vừa bước 
      vào phòng, bà [NBT] đã làm cả giám thị lẫn cảnh sát mất hồn khi rút chiếc 
      guốc dưới chân ra đập nát tấm hình Nguyễn Văn Thiệu đang treo trên tường!”
      
       
      Tôi cho rằng đây chỉ là chuyện phét lác của mấy anh theo cộng, bịa chuyện 
      đánh bóng một cách ngu xuẩn hành động nặc nô của một bà tiến sĩ luật, 
      lòng dạ sôi sục vì danh lợi, đầu óc không còn suy nghĩ. Chuyện giản dị 
      dễ thấy, là bức hình tổng thống trong các công sở, thường được treo trên 
      cao, ngoài tầm tay, nhất là tầm với của một phụ nữ. Vả lại, một phạm nhân 
      bị dẫn giải đi hỏi cung, đột nhiên rút guốc, rút giầy lên cầm tay, tất 
      phải khiến cho người cảnh sát áp giải ra tay đề phòng, 
      thay vì bị “hết hồn” như “sáng tác” của các văn nô chuyên nghề mạ kền, 
      đánh bóng. Nhưng nếu chuyện sảy ra đúng như các “đồng chí” mô tả, thì các 
      ngài trí thức hải ngoại đang tấp tểnh lập công với Đảng, chuyên chửi người 
      tị nạn là cực đoan, hạ cấp, thấy hành động của bà tiến sĩ luật là…đúng 
      luật, là không hạ cấp hay sao là không cực đoan hay sao. Còn 
      như cái đám tập hợp theo bà Thành, được bà gọi là “Phụ Nữ Đòi 
      Quyền Sống ”, là đãi cái chi vậy? Trí óc lươn lẹo, nên lời lẽ ấp úng! Phụ 
      nữ Việt Nam dưới thời Việt Nam Cộng Hòa 
      không có quyền sống hay sao? Hay là họ bị chèn ép, bị đàn áp, kỳ thị, bị 
      đem ra làm đồ buôn bán như ngày nay. Không có đâu. Nhưng chẳng lẽ mụ Thành 
      lại nói toạc móng heo ra cái tên thực của cái đám người theo mụ là “Phụ Nữ 
      Đoi Quyền Theo Cộng” Đúng! mụ và cả cái đám theo mụ chỉ muốn đãi quyền 
      theo “Bác” Nay chuyện này đã trần truồng dưới ánh sáng chói lọi của sự 
      thực, không còn thầy trí thức theo Cộng nào kêu là “chụp mũ” cho bà Thành 
      nữa nhé! Khi Cộng chiếm đoạt được miền Nam, con hồ ly cái này đã hiện 
      nguyên hình là con chồn hôi cộng sản. Tuy nhiên, miếng xương mà cộng thẩy 
      cho mụ để trả công bao năm phá thối VNCH cũng không lớn.
       
      Được Cộng cho vào ngồi trong cái đám chỉ biết gật và vỗ tay, có tên là 
      “cuốc hội”, trong ba bốn khóa, mụ đã “đòi quyền sống” cho người phụ nữ 
      như thế nào? Phụ nữ ta, từ ngày có mụ Thành làm đại diện, đã đãi được 
      cái “quyền” đứng khắp nẻo đường, vẫy gọi nam giới, bán món hàng trời cho. 
      Không phải chỉ ở Saigon, mà còn khắp các đô thị trong nước. Như ở bến 
      Ninh Kiều - Cần Thơ chẳng hạn. 
       
      “Chiều chiều dạo bến Ninh Kiều. 
      Dưới chân tượng bác, đĩ nhiều hơn dân ”
       
       Mụ cũng “đãi” cho phụ nữ ta được “quyền” thoát y cho bọn ngoại nhân tàn 
      tật, già nua của Đại Hàn, Tàu, M. Lai… sờ nắn, ngắm nhìn trước khi thẩy 
      ra mấy ngàn đô, mua như súc vật, đem về làm nô lệ tình 
      dục.
       
      Thảm cảnh và máu lệ ngút trời của phụ nữ như thế, nhưng chớ bao giờ thấy 
      con mụ “đãi quyền sống” này há miệng “trâu đánh” đãi hỏi cái chi, dù chỉ 
      đãi theo pháp luật của cộng đảng! Đáng lý, mụ Thành nên rút guốc đập vào 
      mặt hình lão 
      già râu đang ngồi trên đầu mụ. Nhưng Mụ không còn bộ não 
      để suy xét, và mụ còn bận rộn chõ 
      mõm, 
      gân cổ lên, làm các chuyện ruồi bu khác. Một văn nô “luật sư” cộng, tên là 
      Đỗ Minh Ánh, đã tán tụng “người phụ nữ viết nên huyền thoại ” của hắn ta 
      như sau:
      “Là một luật sư đã 
      từng được đào tạo ở Mỹ, bà khẳng định Đạo Luật Nhân quyền ở Việt Nam của 
      Mỹ không có giá trị pháp lý. Bà cũng đã tỏ rõ quan điểm phản đối gay gắt 
      một tiểu bang ở Mỹ đa cho phép treo cờ ba sọc ” 
       
      Xin bỏ qua cách viết văn “sáng sủa” của ông “luật sư ” khi ông viết “Đạo 
      luật nhân quyền ‘ở‘ Việt Nam của Mỹ ”, tôi xin có 
      
      ý 
      kiến về cái mà mụ “luật sư được đào tạo ở Mỹ ” kêu là “giá trị pháp lý” 
      của đạo luật nhân quyền Mỹ. Theo sự ngu dốt về luật pháp của tôi, thì bất 
      cứ đạo luật nào đã được Quốc Hội Mỹ phê chuẩn, được tổng thống Mỹ 
      
      ký 
      ban hành, nó đều có giá trị pháp lý đối với dân Mỹ. Mỹ nó thấy Việt cộng 
      không có nhân quyền. Nó làm luật, liệt xứ Việt cộng vào danh sách các nước 
      không có nhân quyền, theo tiêu chuẩn nhân quyền của nó. Việc đếch gì đến 
      những anh khác, trong các nước khác. Nếu muốn diễn tuồng tận trung với 
      Đảng, mụ Thành và đám chuyên viên gật trong cái “cuốc hội” ở Ba Đình 
      nên hè nhau viết một đạo luật nhân quyền Việt Nam “ở” Mỹ, rồi đem ra biểu 
      quyết với nhau cho Mỹ nó sợ. Cam đoan chẳng có ma nào nói gì đến cái “giá 
      trị pháp lý” của mụ đâu. Những cái “khẳng định, phản đối gay gắt...” của 
      mụ Thành chỉ “ khẳng định ” một điều: mụ đã đội lốt nhiều thứ để “đãi 
      quyền”, để “trâu đánh”, nhưng trong xương tủy, mụ là một kẻ “mót” công 
      danh, mù quáng theo cộng sản ngay từ ngày mụ vờ vịt giả hình “Đoi quyền 
      sướng ”. 
       
      Ngày 3 tháng 2 năm 2004, “chị Thành” đã bị quỷ vương thình lình 
      tới nhà bắt mụ đi đền tội ác.
       
      Bài viết của tôi về các ông bà trí thức theo cộng, cứ đà này, có thể kéo 
      dài thành một cuốn sách dầy. Không thể đăng báo Nội San được. Thôi đành 
      ngưng lại, dù có vì thế mà không thể nhắc tới bao nhiêu tên tai to mặt 
      lớn khác, cũng cuồng nhiệt theo Cộng và cũng đã phải cười đau khóc hận 
      khi Cộng chiếm trọn quyền thống trị. Như trí thức Châu Tâm Luân, tiến sĩ 
      kinh tế tại đại học Illinois, khi về nước đã ngang nhiên ca tụng cộng 
      trong khi giảng dậy và đã ôm đầu máu chạy trốn đi một xứ có ít người tị 
      nạn, để khỏi bị chỉ mặt, đặt tên. Như Trí thức “bạc đầu đen óc” Phó Bá 
      Long, “ lòng chua sót, dạ bồi hồi”, xum xoe ngâm thơ con cóc bên Võ 
      Văn Kiệt, và cúi xin Kiệt “ân xá” cho người Việt tị nạn, rồi cũng lặng lẽ 
      chuồn đi một nơi không có cộng sản để chết già! Như trí thức Trương Như 
      Tảng, vốn tin rằng Cộng sản cũng có luật pháp, nên đã ăn cái bả “Bộ 
      Trưởng Tư Pháp Việt cộng. 
       
      Ông Đoàn Thanh Liêm viết rằng: truóc khi ra Bắc vào năm 1976, để nghe cộng 
      sản Hà Nội nói về việc lập chính phủ thống nhất, Trương Như Tảng còn 
      “hồ hởi” trấn an “nhóm Luật gia chúng tôi”: 
      “Các anh chị em Luật gia hiện cộng tác với chúng tôi trong Bộ Tư Pháp này 
      đều là ‘ vốn quý của đất nước’; do vậy mà Nhà Nước Cách Mạng sẽ tìm cách 
      sử dụng đúng mức cái nguồn vốn này. Tôi xin đoan chắc với quý anh chị em 
      là bây giờ ta có hòa bình rồi, thì trong chánh phủ mới sẽ có Bộ Tư Pháp để 
      phụ trách quản lý toàn bộ khối công tác thuộc lãnh vực pháp lý …” 
      
       
      Chết đến đít vẫn còn ảo tưởng! Bộ Tư Pháp chẳng thấy đâu, mà ông “bộ 
      trưởng” lại trở thành thuyền nhân “liều mình xuống ghe vượt thoát khỏi 
      Việt nam” để sống sót và viết hồi Ký “Mémoires d’un Vietcong”. Và còn vô 
      số những trí thức nằm vùng khác, như Chân Tín, Trần Ngọc Liễng, Lý 
      Qúy Chung, Lý 
      Chánh Trung, Thích Nhất Hạnh, Vũ Hạnh… một đời dối trá, tôn vinh cái ác, 
      vu cáo điều thiện, đã được cộng sản quăng cho cái xương thừa để gặm chưa? 
      Mong rằng sau này, ai đó sẽ sẽ tập hợp các tên phản quốc này trong một 
      cuốn sách để lưu xú vạn niên cho hậu thế.
       
      Ngày nay, tại hải ngoại, cũng vì hai chữ Lợi, Danh, và để làm vui lòng 
      chủ mới cộng sản, nhiều ông trí thức đã chôn sâu cái căn cước Tị Nạn Cộng 
      Sản, tự gọi mình chỉ là “người sinh sống ở nước ngoài,” ôm ấp ảo tưởng: 
      khoe khoang bằng cấp, chức vụ cũ, van vái cộng sản chiếu cố, ban ơn hoặc 
      khen thưởng! Khi ông giáo sư, tiến sĩ triết, khua chiêng đánh trống, để 
      cộng sản chú 
      
      ý 
      tới ông, hy vọng nó ban cho ông một chút lợi lộc gì, 
      ấy là ông đã quên béng một cái triết lý rẻ tiền này: Bất cứ bọn cướp 
      nào, sau một vụ cướp bóc thành công, chỉ chia phần cho đồng bọn. Trong nội 
      bộ với nhau, chúng còn tranh giành quyết liệt, đãi được phần béo bở. 
      Những anh không góp công trong vụ ăn cướp, hoặc tệ hơn, đã là kỳ đà cản 
      mũi chúng, nay thấy chúng có ăn, lại vác mặt dầy đến xin, thì chỉ có thể 
      được bãi 
      nước bọt vào mặt! Triết lý ba xu ấy mà không biết thì… còn triết được 
      cái gì. 
      Nếu bà Dương Quỳnh Hoa và bao nhiêu trí thức một đời theo cộng, đã chấm 
      dứt cái “grande illusion,” thì các ông trí thức thân cộng ở hải ngoại lại 
      đang ve vuốt cái “great delusion ”, là sẽ được “ trên ” trông xuống, ban 
      ra một ơn huệ, cho các ông tham gia bữa tiệc “đổi mới” làm bằng máu xương 
      dân Việt. Xin các ông hãy đối mặt với sự thực, tự hỏi mình vài câu đơn 
      giản
       
      “Vì sao các ông bà phải trốn chạy đi sinh sống ở nước ngoài?
       
      Tại sao cộng sản ‘tốt’ như thế mà các ông không dám về nước để hòa hợp với 
      chúng? ”
       
      Các ông bà trí thức theo cộng ở hải ngoại cũng thường dè bỉu người tị nạn 
      là “chống cộng ấu trĩ, thù dai, là cuồng tín, là cực đoan, là ưa chụp nón 
      cối” lên đầu các ông.
       
      Vâng, chúng tôi quả có chống cộng một cách “ấu trĩ ” theo nhận định của 
      quí vị. Bởi vì
      
      
      cứ ngửi thấy hơi cộng sản, là chúng tôi thấy ngay mùi máu tanh nồng của 
      chết chóc, của tang thương; cho nên chúng tôi phải bằng mọi cách trừ khử 
      cái mùi tử khí đó, bất kể là phương tiện ấy ấu trĩ hay không. Còn 
      nói chúng tôi “cực đoan” và “cuồng tín” thì tội cho chúng tôi biết bao! 
      Chúng tôi tưởng những kẻ mà quý 
      vị đang dùng bao phương kế lươn lẹo để xin ban ân, còn cực đoan và cuồng 
      tín hơn người tị nạn chúng tôi cả ngàn lần! Cáo Hồ là một ác quỷ, phạm đủ 
      các tội ác kinh khiếp, nhưng đã được bọn Cộng tôn lên hàng thần thánh. 
      Muốn thử sự cuồng tín của Việt cộng, các ông hãy nói ra, dù chỉ một chút 
      sự thật về già Hồ, xem bọn cộng phản ứng ra sao? Xin hỏi:
      Ai đã bao năm mê muội, cuồng tín với cái “tôn giáo” mới nhập từ Nga, Tầu, 
      đến mức quyết tâm diệt trừ mọi tôn giáo khác, để độc quyền thờ cúng 
      Mac-Lê? 
       
      Ai đã cực đoan đến nỗi đào mổ cuốc mả, bắn thủng mắt những tấm hình trên 
      mộ bia nghĩa trang quân đội. Ai đã áp lực đục phá những tấm bia tị nạn 
      trên các đảo vùng Đông Nam Á.
       
      Ai đã chủ trương thà giết lầm người còn 
      hơn bỏ sót. Ai đã dùng “lý lịch ba đời ” để gạt bỏ các con em miền Nam 
      trong việc học hành, sinh sống.
       
      Ai đã bỏ tù, giết chóc không gớm tay, ngay các đồng chí của mình, chỉ 
      vì một 
      
      ý 
      kiến bất đồng. Những cái đó chắc không phải là cực đoan và cuồng tín.
      
       
      Kể sao cho xiết. Còn 
      như cho là chúng tôi ưa “chụp nón cối”, thì chính chúng tôi có quyền phàn 
      nàn về cái trí nhớ quá đoản kỳ của quý 
      ông bà.
       
      Xin hãy ngoảnh nhìn quá khứ thật gần.
       
      Những tên như Huỳnh Tấn Mẫm, mụ Ngô Bá Thành, Thích Trí Quang, Vũ Hạnh, Lý
      
      
      Chánh Trung, Lý 
      Quý 
      Chung, Trịnh Công Sơn… và bao nhiêu tên theo cộng, núp dưới đủ thứ chiêu 
      bài tốt đẹp, cũng quỷ quyệt né tránh cái tội ác cộng sản nằm vùng, kêu 
      oan, là “bị chụp mũ ” thân cộng hay theo cộng. Các tên đó trước đây la to 
      bao nhiêu để phản đối “bị chụp mũ”, thì khi cộng chiếm miền Nam, họ cũng 
      gào lớn như thế để “ báo công” với cộng. Trong quá khứ, chúng tôi đã điểm 
      đúng mặt “lũ ong tay áo, lũ khỉ dòm nhà ”, thì ngày nay bọn ăn cháo đá 
      bát, bọn tị nạn giả hình, cũng sẽ khó náu hình trong bóng tối để âm mưu 
      chuyện ôm đít cộng.
       
      Tổng thống George W. Bush, khi chủ tọa lễ khánh thành Tượng Đài Nạn Nhân 
      Cộng Sản Thế giới ngày 12 tháng 6 năm 2007, đã phát biểu: 
      “ … Đây là biểu tượng thảm họa kinh hoàng trong thế kỷ 20 của nhân loại 
      nói chung, và 25 quốc gia bị cộng sản cai trị nói riêng. Từ nay, oan hồn 
      của hơn 100 triệu nạn nhân cộng sản được những thế hệ hômqua, hôm nay, và 
      mai sau tưởng nhớ. Tưởng nhớ để tận diệt chế độ này đến tận gốc rễ, vì chế 
      độ cộng sản là tàn bạo và phi nhân.” 
       
      100 triệu con người đã bỏ mạng vì cộng sản.
       
      Dân Việt ta đã 
      “đóng góp” vào núi xương sông máu này bao nhiêu triệu mạng. Xin các ngài 
      trí thức thân cộng đừng kêu gọi chúng tôi đóng góp thêm nữa. Chúng tôi lúc 
      nào cũng muốn đội các ngài lên đầu, xưng tụng các ngài là sư, là sĩ, để 
      nghe lời chỉ giáo; nhưng xin tha mạng, đừng mang ảo tưởng dụ chúng tôi 
      quên tội ác của Cộng!
       
      Ai tai! viết mấy cho vừa!
      
       
      
      BXCanh