Trân trọng giới thiệu  bài viết :
 BÀI 2: AI LÀ NGỤY QUÂN  - NHỮNG TÊN ĐẶC CÔNG ĐỎ
Trích trong sách và loạt bài viết :“Những tên đặc công đỏ trong phong trào đòi hỏi dân chủ cho Việt Nam“, của tác giả nhà báo Việt Thường, vạch mặt tên tội phạm đặc công đỏ Việt gian cộng sản Bùi Tín và những tên Việt gian giả danh đội lốt Cộng sản và lũ tay sai theo lệnh của gian đảng VGCS giàn dựng màn kịch đòi hỏi đấu tranh dân chủ…cuội đểu giả.
. 
Theo nguồn: nhabaovietthuong.blogspot.com
Vietnam - Buddhist 
Bài 2: Ai là ngụy quân?
Thưa ông Bùi Tín,
Ông cũng đã sai lầm khi viết rằng quân đội là do "đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo". Sự thật là cộng sản tận cuối tháng 12-1944 mới cho ra đời được một trung đội vũ trang, do Hoàng quốc Việt làm lễ trao cờ ở Tân Trào. Nhìn tấm ảnh chụp thì thấy có chừng ba chục mống là cùng, với Võ nguyên Giáp làm trung đội trưởng. Trong hồi ký của trung tá Nguyễn văn Rạng, một trong số người của cái trung đội ấy, có kể là được học tập "điều lệ của Việt Minh" mà thôi.
   Về Việt Minh (cả tên là 
 Việt Nam Độc lập Đồng minh hội) ra đời từ 1936, do cụ Hồ học Lãm, một người 
 Việt Nam yêu nước, lập ra ở bên Tàu, nhằm tập hợp mọi cá nhân có chung mục 
 tiêu giành độc lập cho Việt Nam, có thể có đường lối khác nhau, nhưng cùng 
 sinh hoạt trong tổ chức này để được chính phủ Tưởng giới Thạch khi đó cấp 
 kinh phí cho hoạt động. Tổ chức ra đời, có ký danh với trung ương Quốc dân 
 đảng của Tàu. Khi Hồ chí Minh bị tướng Trương phát Khuê bắt bỏ tù vì nghi là 
 hoạt động cho cộng sản, Hồ năn nỉ để được các cụ Hồ học Lãm và Nguyễn hải 
 Thần, nhân danh Việt Minh, bảo lãnh cho ra tù. Hồ xin gia nhập Việt Minh và 
 xin được về hoạt động ở biên giới Việt-Hoa. Chính nhờ cái "lốt Việt Minh" 
 che đậy bộ mặt dra-cu-la cộng sản mà Hồ đã đánh lừa được nhóm thanh niên gồm 
 hơn 40 người do tổ chức Việt Cách của cụ Nguyễn hải Thần móc nối qua Tàu và 
 được Trương trung Phụng huấn luyện về quân sự. Cái nhóm đó chính là bọn Chu 
 văn Tấn, Lê quảng Ba, Trần Sâm, Hồng Kỳ sau này, tưởng Hồ là Việt Minh thứ 
 thiệt nên chịu để Hồ giảng dạy về "Điều lệ của Việt Minh", và họ quay về 
 nước hoạt động phát triển Việt Minh.
   Cho nên Việt Minh thật 
 ra không phải là tổ chức của cộng sản. Điều lệ của Việt Minh không khát máu, 
 nói chung, như cộng sản, nên nó có hiệu quả hơn khi vận động quần chúng tham 
 gia.
   Đội lốt Việt Minh, Hồ đã 
 cướp không được hơn bốn chục cán bộ khung và dễ dàng mở rộng địa bàn ở biên 
 giới. Vì thế, Hồ đã liên lạc với Trường Chinh, Hoàng quốc Việt để họp ở Cao 
 bằng (1941) đưa ra âm mưu mượn danh Việt Minh hoạt động cho cộng sản. Sau 
 này chúng trân tráo rằng Việt Minh là do chúng nặn ra!!!
   Nhờ trong lốt Việt Minh, 
 bọn Hồ đã dựng ra được cái gọi là "cách mạng tháng tám 1945". Và, để chắc ăn 
 hơn, Hồ cho giải tán đảng cộng sản Đông dương.
   Nếu cộng sản có "uy tín 
 trong dân" thì tại sao bọn cộng sản lại tuyên bố giải tán đảng của chúng? 
 Và, còn ma mãnh hơn nữa, trong thư gửi tướng Trần tu Hòa (18), đề ngày 
 19-12-1945, Hồ khẳng định: "Việt Minh không phải là một đảng chính trị", 
 mà có nhiều thành phần tham gia.
   Có thể ông (và một số 
 người khác) sẽ hỏi: tại sao Hồ lại nắm được chính quyền?
   Đúng là Hồ đã nắm được 
 chính quyền, không phải do đảng cộng sản của Hồ được dân tín nhiệm, không 
 phải các đảng phái không cộng sản yếu kém, như sau này các bồi bút cộng sản 
 xuyên tạc sự thật lịch sử.
   Đảng cộng sản Đông dương 
 của Hồ có được dân Việt Nam tín nhiệm không, thì chỉ nguyên cái việc vào 
 thời điểm dầu sôi lửa bỏng như vậy mà chúng phải tự giải tán đảng cũng đã là 
 một câu trả lời rõ ràng nhất rồi. Có điều là các đảng phái không cộng sản; 
 các nhân sỹ, trí thức yêu nước; các phong trào quần chúng tự phát; các tổ 
 chức tôn giáo; cho đến cả Hoàng đế Bảo Đại, chính phủ Trần Trọng Kim v.v… 
 đều chỉ biết vui mừng thấy sau khi Nhật đảo chính Pháp thì đến lượt Nhật đầu 
 hàng đồng minh (15-8-1945), nằm yên chờ giải giới. Mọi người đều náo nức 
 thấy sau gần 100 năm bị thực dân Pháp đô hộ, nền độc lập của đất nước đã lấp 
 ló như rạng đông nên mất cảnh giác dễ dàng để Hồ lừa. Mọi người, mọi tổ chức 
 (trừ Hồ và bọn chóp bu của đảng cộng sản Đông dương) đều đấu tranh cho mục 
 tiêu của độc lập, không có tham vọng thống trị như Hồ và bè lũ cộng sản, vì 
 thế Hồ đã lừa đảo tất cả để cố "cướp lấy chính quyền", là cái mục tiêu chủ 
 yếu mà thực dân đỏ Nga-xô giao nhiệm vụ cho hắn khi thành lập đảng cộng sản 
 Đông dương từ 1930. Cho nên khi ấy chẳng ai nghĩ đến "cướp chính quyền" 
 trong tay chính phủ Trần Trọng Kim của Hoàng đế Bảo Đại, loại trừ Hồ và bè 
 lũ là có âm mưu đó. Chúng dựa hơi vào các cuộc tuần hành tự phát của quần 
 chúng và của các đảng phái không cộng sản, biến cuộc biểu dương lực lượng 
 lập lờ thành sức ép của quần chúng, và qua tên Tôn quang Phiệt, móc nối với 
 thư ký riêng của Hoàng đế Bảo Đại là Phạm khắc Hòe, để tên này báo cáo láo 
 với Hoàng đế Bảo Đại, khiến Ngài vốn không thích cầm quyền nên đã sẵn sàng 
 thoái vị, trao quyền lại cho toàn dân. Lòng lương thiện cả tin của từ Hoàng 
 đế Bảo Đại cho đến cụ Trần Trọng Kim và các nhân sỹ, trí thức yêu nước đã dễ 
 dàng bị mắc quả lừa của tụi cộng sản.
   Thành công bằng sự "tháu 
 cáy" đó nên Hồ sợ phản ứng của nhân dân. Hắn vội vàng mời hoàng đế Bảo Đại 
 làm cố vấn tối cao, cho Phạm khắc Hòe (thư ký của Bảo Đại) làm đổng lý văn 
 phòng Bộ Nội vụ; mời hầu hết các thành viên trong chính phủ Trần Trọng Kim 
 tham gia chính phủ; mời các nhân sỹ, trí thức có tên tuổi, các quan lại cũ 
 như thượng thư Bùi bằng Đoàn (cụ thân sinh của ông Bùi Tín); khâm sai đại 
 thần Phan kế Toại; tổng đốc Hồ đắc Điềm; các tri phủ Tạ quang Đạm, Dương văn 
 Đàm v.v., dùng Vũ đình Huỳnh, một người gia đình họ hàng là công giáo toàn 
 tòng làm trong ban thư ký, để yên lòng giáo dân và từ đó đi Phát Diệm gặp 
 Đức Cha Lê Hữu Từ mời vào ban cố vấn. Hồ còn đề nghị cấp tiền nuôi dưỡng cho 
 các bà vợ của các vua Thành Thái và Duy Tân; cho in tem chân dung của Nam 
 Phương hoàng hậu. Hồ còn đến Văn miếu dâng hương đức Khổng tử; dự giỗ tổ 
 Hùng Vương, làm kỷ niệm ngày mất của Phan chu Trinh và đề nghị hoãn lệnh của 
 chính phủ Trần Trọng Kim triệt hồi và truy tố các tham quan (19), xin được 
 hợp tác với các đảng phái không cộng sản, và tuyên bố giải tán đảng cộng sản 
 Đông dương.
   Thủ đoạn lưu manh chính 
 trị đó đã giúp Hồ được mọi người coi như là một "nhà nho yêu nước", nhất là 
 Hồ cho loan tin rằng Hồ là con một phó bảng, một người đã từng được chung 
 sống với cụ Phan chu Trinh ở Paris (Pháp). Và được cụ Phan dạy cho nghề ảnh. 
 Cùng lúc Hồ cho tung tin Hồ giống như công tử Trùng Nhĩ (tức Tấn văn Công 
 trong Đông Chu liệt quốc). Cho nên phần lớn không coi Hồ là cộng sản và sẵn 
 sàng vì việc chung của đất nước mà hợp tác với Hồ.
   Cho nên cái gọi là "cách 
 mạng tháng tám" không có đổ máu. Đó là một sự chuyển tiếp hòa bình quyền lực 
 cho toàn dân mà tụi lưu manh cộng sản đội lốt Việt Minh giành phần, bịa đặt 
 "cướp công" thành "cướp chính quyền"; bịa chuyện đánh Nhật, đuổi Pháp mà 
 trên thực tế Pháp đã bị Nhật lật đổ và đến lượt Nhật bị đồng minh bắt hàng 
 không điều kiện. Chỉ đến khi nhận được ấn, kiếm của Hoàng đế Bảo Đại trao 
 cho, tụi cộng sản mới hơi lòi bộ mặt lưu manh trộm cắp. Đó là việc tên Trần 
 huy Liệu cho giết Phạm Quỳnh và con là Phạm Giao và Trần huy Liệu còn cưỡng 
 ép vợ Phạm Giao làm vợ lẽ của hắn. Hai cha con Phạm Quỳnh, Phạm Giao không 
 liên quan gì đến chính phủ Trần Trọng Kim.
     
   Ở Việt Nam, chính phủ Trần 
 Trọng Kim có thể tạm ví như chính phủ dân chủ Kêrenski ở Nga tháng 2-1917. 
 Và Hồ đã áp dụng kiểu như Lê-nin với Kêrenski. Có điều bọn cộng sản Hồ chí 
 Minh không được quần chúng đông đảo hậu thuẫn, tổ chức mỏng và lực lượng vũ 
 trang có mỗi trung đội của Võ nguyên Giáp và Chu văn Tấn, vì thế Hồ phải 
 giải tán đảng cộng sản Đông dương và chui đầu núp vào danh tiếng của Hoàng 
 đế Bảo Đại, của các thành viên trong chính phủ Trần Trọng Kim, của các đảng 
 phái không cộng sản, của các nhân sỹ, trí thức có tên tuổi, của các vị lãnh 
 đạo tinh thần có uy tín, nhằm tạm thời che đậy bộ mặt Việt gian, tay sai của 
 thực dân đỏ Nga-xô.
   Nếu không kịp thời giải 
 tán đảng cộng sản Đông dương và lờ đi cái tên Nguyễn ái Quốc, chắc chắn toàn 
 dân Việt Nam sẽ không mơ hồ để phải chịu đựng quãng thời gian làm nô lệ cho 
 thực dân đỏ gần dài bằng nô lệ cho thực dân Pháp (tính cho đến nay).
   Mặc dù đa số đang ngây 
 ngất men chiến thắng vì Pháp đổ, Nhật đầu hàng Đồng minh, được tự do đi lại 
 ăn nói hội họp nên mơ hồ, nhưng vẫn không ít người sáng suốt nhìn được rõ 
 con quỷ đỏ dra-cu-la Hồ chí Minh, như Trương tử Anh của Đại Việt, như Lý 
 Đông A, như Khái Hưng, như Ngô đình Diệm v.v. và sau vụ này là Đức Cha Lê 
 hữu Từ, cụ Trần Trọng Kim và cả cố vấn tối cao Vĩnh Thụy (tức cựu Hoàng Bảo 
 Đại). Vì thế Hồ đã cho mật lệnh thủ tiêu những người yêu nước không là cộng 
 sản, kể cả những nhân vật trotskít như Tạ thu Thâu, Phan văn Hùm cũng như vu 
 khống, bôi nhọ uy tín của các đảng phái không cộng sản và lãnh tụ của các 
 đảng phái đó.
   Khi đã nắm được chức chủ 
 tịch của Chính phủ Liên hiệp, một trong những mối lo hàng đầu của Hồ là phải 
 nắm lực lượng vũ trang. Để tránh lộ liễu, Hồ để những nhân vật không đảng 
 phái hoặc đảng phái khác nắm bộ quốc phòng, cụ thể là cụ Vũ hồng Khanh làm 
 bộ trưởng, thế là VNQDĐ của cụ Vũ hồng Khanh há miệng mắc quai khi Hồ cử các 
 nhà quân sự của VNQDĐ vào Nam, như tướng Nguyễn Bình, Nguyễn văn An v.v… Rồi 
 Hồ lấy cớ cần người có uy tín đi ký Hiệp định Sơ bộ 9-3 ở Đà-lạt, để cử cụ 
 Vũ hồng Khanh đi, nghĩa là lột chức đầy quyền lực của Vũ hồng Khanh. Và Hồ 
 đề cử luật sư Phan Anh, một người không đảng phái, từng là bộ trưởng trong 
 chính phủ Trần Trọng Kim, giữ ghế Bộ trưởng Quốc phòng. Như vậy làm sao ai 
 dám ngờ dã tâm của Hồ. Tiếp theo, Hồ cho lập Quân ủy hội song song với Bộ 
 quốc phòng, và cử Võ nguyên Giáp làm chủ tịch Quân ủy hội, và cụ Vũ hồng 
 Khanh, ký hiệp định Sơ bộ 9-3 về, làm phó chủ tịch Quân ủy hội. (20)
   Ngày 22-5-1946, Hồ ký 
 sắc lệnh số 71 về việc tổ chức quân đội (hợp nhất của các đảng phái, kể cả 
 bảo an binh của chính phủ tiền nhiệm Trần Trọng Kim) và gọi là Quân đội Quốc 
 gia. (21)
   Thời gian đó ở phía Bắc, 
 quân Tàu Tưởng, vào giải giới quân Nhật, gây nhiều chuyện nhố nhăng, quân 
 Pháp lăm le quay trở lại. Còn phía Nam thì lính Pháp theo chân quân đội Anh 
 vào giải giới quân Nhật bắt đầu gây chiến. Cả nước khí thế như núi lửa, 
 thanh niên nam nữ ai cũng muốn gia nhập lực lượng vũ trang. Những nhà giàu 
 bỏ tiền thành lập quân đội, như bà Cát thành Long chẳng hạn, đã nuôi hàng 
 trung đoàn quân và cả hai con trai cùng gia nhập quân đội. Dựa vào khí thế 
 đó, Hồ đã đội lốt Chính phủ Liên hiệp kêu gọi thanh niên nhập ngũ bảo vệ Tổ 
 quốc. Các trường quân chính được mọc lên.
   Ngày 26-5-1946, Hồ cùng 
 bộ trưởng quốc phòng là luật sư Phan Anh, chủ tịch quân ủy hội là Võ nguyên 
 Giáp lên Sơn-tây dự lễ khai giảng lớp võ bị Trần Quốc Tuấn. Giám đốc trường 
 là huynh trưởng hướng đạo sinh Hoàng đạo Thúy (không đảng phái) thay mặt 
 trường nhận cờ Hồ tặng, có thêu tôn chỉ của quân đội quốc gia là: "Trung 
 với nước, hiếu với dân". (22)
Thưa ông Bùi Tín,
Những điều chúng tôi nêu trên là trích dẫn từ sách, báo, hồi ký, tư liệu lưu trữ của cộng sản. Điều đó đã chứng minh rằng cộng sản không phải là kẻ tổ chức và lãnh đạo quân đội.
   Vì lòng yêu nước, các 
 đảng phái, các cá nhân không cộng sản đã hòa giải, hòa hợp với nhau và với 
 cả Hồ để cho ra đời Chính phủ Liên hiệp. Cái Chính phủ Liên hiệp đó mới là 
 cha đẻ ra quân đội hợp nhất của các đảng phái, của bảo an binh và mang tên 
 QUÂN ĐỘI QUỐC GIA. Quân đội đó ra đời để bảo vệ độc lập dân tộc, toàn vẹn 
 lãnh thổ Việt Nam, với tôn chỉ: 
 TRUNG VớI NUớC, HIẾU VớI DÂN.
   Từ 1930, theo lệnh thực 
 dân đỏ Nga-xô, Hồ đã thành lập đảng cộng sản Đông dương làm công cụ bành 
 trướng chủ nghĩa thực dân đỏ ra toàn cõi Đông dương.
   Hồ không phải như Trường 
 Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn văn Linh, chỉ loanh quanh trong 3 miền Bắc, Trung, 
 Nam của Việt Nam, không phải như me-xừ hoạn lợn (mà ông sáng tác thành thợ 
 chữa khóa dạo) là Đỗ Mười, chỉ loanh quanh mấy chợ quê để thiến heo, hay như 
 Lê khả Phiêu, cao nhất là tới đất Căm-bốt lúc đã bị tụi cộng sản thân Tàu 
 tàn phá, mà Hồ từng sống trên khắp các nước Pháp, Anh, Mỹ, Tàu, Thái lan, 
 Nga-xô. Nghĩa là Hồ không chỉ nghe nói mà là đã nếm, đã thử, đã sống trong 
 một loạt xã hội có chế độ chính trị khác nhau. Nghĩa là Hồ có điều kiện thực 
 tế để so sánh cái hơn cái kém của các thể chế chính trị đó. Hồ đã chứng kiến 
 những vụ thanh trừng nội bộ, tàn sát nhân dân, âm mưu bành trướng bá quyền 
 của Stalin. Và, chắc chắn Hồ phải hiểu rõ mục đích thành lập đảng cộng sản 
 Đông dương để làm gì, lợi cho ai, hại cho ai?
   Chính vì thế Hồ mới bán 
 cụ Phan Bội Châu cho mật thám Pháp mới phá cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thái 
 Học; mới giết, bôi nhọ những người yêu nước v.v… Cho nên Hồ đã cố tình xóa 
 bỏ công lao của Chính phủ Trần Trọng Kim đã thổi bùng trở lại tinh thần yêu 
 nước của nhân dân trên toàn cõi Việt Nam; đã tạo ra tiền đề cho sự hòa giải, 
 hòa hợp của toàn dân Việt Nam, để cuối cùng Hồ là kẻ thủ lợi.
   Sau khi Tàu cộng làm chủ 
 lục địa, Hồ cho quân đội quốc gia luân phiên qua Tàu để tẩy não, để ồ ạt kết 
 nạp vào cộng sản. Và cuối cùng thì như ông đã viết trong sách của ông rằng:
 "Đảng lãnh đạo thường xuyên, liên tục, toàn diện và tuyệt đối quân đội 
 ta"(23).
   Kể từ khi hoàn toàn làm 
 chủ được quân đội quốc gia, Hồ đã đánh tráo cái tên quân đội quốc gia thành 
 quân đội nhân dân hoặc "bộ đội cụ Hồ"! Và cái tôn chỉ ban đầu của Quân đội 
 Quốc gia là "Trung với nước, hiếu với dân" bị biến chất thoái hóa thành 
 "trung với đảng, hiếu với dân"; nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn 
 nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
   Cuối năm 1951, đảng cộng 
 sản Đông dương, từng giả vờ tự giải tán để hoàn thành việc lừa đảo toàn dân 
 Việt Nam, lộ diện trở lại với cái tên hiền lành và mơ hồ hơn gọi là "đảng 
 Lao động Việt Nam". Kể từ đó, mọi chính sách của Hồ đều nhằm vô hiệu hóa sự 
 hoạt động của Quốc hội khóa 1 (của nhiều đảng phái không cộng sản), tiến tới 
 âm thầm đảo chính Chính phủ Liên hiệp. Gọi là đảo chính âm thầm, vì Hồ chỉ 
 cốt tước thực quyền của thành viên chính phủ không là cộng sản, lưu giữ họ 
 lại làm bù nhìn nhằm lèo lái cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc chống thực 
 dân Pháp thành cuộc chiến của thực dân đỏ nhằm giành giật 3 nước Đông dương 
 trong tay thực dân Pháp.
   Tuy đã nắm trọn quyền về 
 lực lượng vũ trang, nhưng Hồ còn muốn lực lượng vũ trang phải hoàn toàn 
 trung thành mù quáng đối với Hồ. Vì thế hắn đã sai Lê văn Lương, trưởng ban 
 tổ chức trung ương, ký quyết định về "chế độ ngày sinh hoạt đảng trong 
 quân đội" vào ngày 15-3-1954. (24)
   Và biện pháp chủ yếu Hồ 
 dùng để làm đảo chính âm thầm Chính phủ Liên hiệp là "giảm tô và cải cách 
 ruộng đất" và "chấn chỉnh tổ chức".
   Để che giấu âm mưu đen 
 tối nói trên, trong phiên họp ngày 15-3-1954 của hội đồng chính phủ, Hồ đề 
 nghị thông qua điều lệ tổ chức ủy ban cải cách ruộng đất trung ương và danh 
 sách các ủy viên của ủy ban này.
   Âm mưu đó bộc lộ trắng 
 trợn trong "Thông tri của ban bí thư"(25) do Lê văn Lương ký ngày 22-5-1954, 
 gửi các Liên khu ủy Việt Bắc, III, IV, khu ủy Tây Bắc và các Đoàn ủy cải 
 cách ruộng đất và giảm tô. Trong thông tri có những đoạn đáng chú ý như:
  
     "Ban thường trực ủy 
 ban cải cách ruộng đất Trung ương phụ trách giải quyết công việc hàng ngày 
 gồm một số đồng chí trung ương (tức cộng sản). Như vậy rất tiện cho Trung 
 ương dùng danh nghĩa công khai để chỉ đạo công tác phát động quần chúng giảm 
 tô và cải cách ruộng đất."
  
     "Phải coi những chỉ 
 thị, thông tri ấy như của trung ương Đảng và phải chấp hành nghiêm chỉnh."
  
     "Những vấn đề thuộc 
 về nội bộ Đảng hoặc cần giữ bí mật không tiện dùng danh nghĩa công khai, 
 Trung ương (tức cộng sản) sẽ gửi cho các Liên khu ủy, Tỉnh ủy và Đoàn ủy, và 
 các Liên khu ủy, Tỉnh ủy và Đoàn ủy cũng báo cáo trực tiếp lên trung ương 
 (tức cộng sản) những vấn đề thuộc nội bộ đảng."
   Cái "cần giữ bí mật" đó 
 là mượn cớ cải cách ruộng đất để thanh lọc tận cơ sở những đảng phái, cá 
 nhân, tổ chức không là cộng sản và cả những đảng viên cộng sản mà Hồ "mở cửa 
 đảng" tổ chức kết nạp ồ ạt. Giờ đây thành phần tổ chức đảng ở cơ sở phải đảm 
 bảo "trung với đảng" như quân đội vậy. Nghĩa là phải trung với Hồ, hay nói 
 cách khác là phải trung với mẫu quốc đỏ Nga-xô.
   Kết thúc cái gọi là "rèn 
 cán, chỉnh quân" và thường xuyên thanh lọc qua "Quyết định về chế độ ngày 
 sinh hoạt đảng trong quân đội", được ký ngày 15-3-1954, thì kể từ đó cái gọi 
 là quân đội nhân dân Việt Nam thực chất là ngụy quân. Nhiệm vụ của ngụy quân 
 cộng sản là hoàn thành bất cứ nhiệm vụ nào mà đảng – tức nhóm lãnh đạo chóp 
 bu – ra lệnh.  
   Sau cải cách ruộng đất, 
 chấn chỉnh tổ chức, cách mạng văn hóa tư tưởng và cải tạo công thương nghiệp 
 tư bản tư doanh thì Việt Nam (phía Bắc sau 1954 và cả nước sau 30-4-1975) 
 thưc tế là thuộc địa đỏ, bị cai trị bởi tụi cộng sản là tổ chức Việt gian, 
 tay sai của thực dân đỏ Nga-Tàu.
   Dám nhìn vào sự thật mới 
 có thể lý giải được vì sao các chính sách của cộng sản đề ra đều chống lại 
 quyền lợi của nhân dân và đất nước Việt Nam, từ khi Hồ còn sống cho đến tất 
 cả lũ thừa kế Hồ là Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười, Lê khả 
 Phiêu và nay là Nông đức Mạnh. Dám nhìn vào sự thật này mới hiểu tại sao cái 
 gọi là quân đội nhân dân Việt Nam lại có thể pháo kích vào trường học, chợ 
 búa, nhà thờ, đền chùa, giết dân như vụ tàn sát gần 2 vạn người Mèo ở hai 
 huyện Phó Bảng và Mèo Vạc ở Hà-giang; tàn sát giáo dân ở Nghệ-an, Quảng-bình; 
 tàn sát nhân dân ở Huế (1968); xâm lược miền Nam Việt Nam, trấn áp và tàn 
 sát đồng bào thiểu số ở Tây-nguyên; sau 30-4-1975 đã tàn phá các thành thị ở 
 miền Nam khiến trong cuốn "Mặt thật" ông đã phải viết rằng: "xử sự như 
 những đội quân chiếm đóng".  
Thưa ông Bùi Tín,
Ông đã tiệm cận với sự thật. Chúng "xử sự như những đội quân chiếm đóng" là vì cái sự thật rành rành mà ông chưa muốn thấy. Đó là:
   Cái gọi là quân đội nhân 
 dân Việt Nam thực chất là ngụy quân, công cụ của tập đoàn Việt gian 
 cộng sản Việt Nam, tay sai của đế quốc đỏ Nga-Tàu.

 
 
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen